SKKN Các biện pháp giúp trẻ chậm phát triển trí tuệ ở Lớp Một học tập đạt hiệu quả hơn

Ở bất kỳ giai đoạn lịch sử nào và bất cứ quốc gia nào trên thế giới cũng đều có một bộ phận trẻ khuyết tất nhất định, sự thất này là một điều tất yếu khách quan. Ngày nay, trẻ khuyết tật là một phần không thể tách rời của xã hội vì vậy việc quan tâm, chăm sóc và giáo dục trẻ khuyết tật đã trở thành việc làm cần thiết và cấp bách của toàn xã hội vói chung cũng như ngành Giáo dục nói riêng. Bộ GD&ĐTđã ban hành Quyết định số 23/2006 về việc giáo dục dành cho người khuyết tật và tàn tật với mục tiêu “Giúp người khuyết tật được hưởng quyền học tập bình đẳng như những người khác.

Tạo điều kiện và cơ hội cho người khuyết tật học tập văn hoá, học nghề, phục hồi chức năng và phát triển khả năng của bản thân để hoà nhập cộng đồng” Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến việc trẻ bị khiển khuyết về sức khoẻ, về các chức năng cơ thể từ đó dẫn đến việc trẻ gặp khó khăn trong hoạt động cá nhân, hoạt động học tập và trẻ hay có những hành vi bất thường. Muốn giáo dục và chăm sóc trẻ một cách hiệu quả để có thể giáo dục trẻ hoà nhập cộng đồng được vui chơi, học tập bên bạn bè, người thân và gia đình, hơn thế nữa là việc giúp trẻ có những kỹ năng xã hội cần thiết trở thành một con người năng động thì phương pháp giáo hoà nhập (GDHN) hiện nay là tốt nhất. Giáo dục trẻ khuyết tật, trẻ chậm phát triển trí tuệ (CPTTT) học hoà nhập là một nhiệm vụ cao cả của người thầy để giúp các em tìm thấy cuộc sống mới và có một chân trời mới tốt đẹp và tươi sáng hơn.

pdf 19 trang Huy Quân 31/03/2025 900
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Các biện pháp giúp trẻ chậm phát triển trí tuệ ở Lớp Một học tập đạt hiệu quả hơn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Các biện pháp giúp trẻ chậm phát triển trí tuệ ở Lớp Một học tập đạt hiệu quả hơn

SKKN Các biện pháp giúp trẻ chậm phát triển trí tuệ ở Lớp Một học tập đạt hiệu quả hơn
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 
CÁC BIỆN PHÁP GIÚP TRẺ CHẬM PHÁT 
TRIỂN TRÍ TUỆ Ở LỚP MỘT HỌC TẬP 
ĐẠT HIỆU QUẢ HƠN 
A. ĐẶT VẤN ĐỀ: 
Ở bất kỳ giai đoạn lịch sử nào và bất cứ quốc gia nào trên thế 
giới cũng đều có một bộ phận trẻ khuyết tất nhất định, sự thất này 
là một điều tất yếu khách quan. Ngày nay, trẻ khuyết tật là một phần 
không thể tách rời của xã hội vì vậy việc quan tâm, chăm sóc và 
giáo dục trẻ khuyết tật đã trở thành việc làm cần thiết và cấp bách 
của toàn xã hội vói chung cũng như ngành Giáo dục nói riêng. Bộ 
GD&ĐTđã ban hành Quyết định số 23/2006 về việc giáo dục dành 
cho người khuyết tật và tàn tật với mục tiêu “Giúp người khuyết tật 
được hưởng quyền học tập bình đẳng như những người khác. Tạo 
điều kiện và cơ hội cho người khuyết tật học tập văn hoá, học nghề, 
phục hồi chức năng và phát triển khả năng của bản thân để hoà nhập 
cộng đồng” 
 Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến việc trẻ bị khiển khuyết về 
sức khoẻ, về các chức năng cơ thể từ đó dẫn đến việc trẻ gặp khó 
khăn trong hoạt động cá nhân, hoạt động học tập và trẻ hay có 
những hành vi bất thường. Muốn giáo dục và chăm sóc trẻ một cách 
hiệu quả để có thể giáo dục trẻ hoà nhập cộng đồng được vui chơi, 
học tập bên bạn bè, người thân và gia đình, hơn thế nữa là việc giúp 
trẻ có những kỹ năng xã hội cần thiết trở thành một con người năng 
động thì phương pháp giáo hoà nhập (GDHN) hiện nay là tốt nhất. 
Giáo dục trẻ khuyết tật, trẻ chậm phát triển trí tuệ (CPTTT) học hoà 
nhập là một nhiệm vụ cao cả của người thầy để giúp các em tìm 
thấy cuộc sống mới và có một chân trời mới tốt đẹp và tươi sáng 
hơn. 
 Dưới sự phân công giảng dạy lớp Một là lớp đầu cấp, việc dạy 
và học hoà nhập đối với trẻ khuyết tật còn nhiều khó khăn. Để thực 
hiện nhiệm vụ xã hội hoá giáo dục cũng như những mong muốn nêu 
trên tôi xin nêu: 
“Các biện pháp giúp trẻ chậm phát triển trí tuệ ở lớp Một học 
tập đạt hiệu quả hơn” 
NỘI DUNG: 
1. Thực trạng: 
 Trường Tiểu học Hải Vân những năm gần đây năm học nào cũng 
có số trẻ khuyết tật học hoà nhập khá đông . Riêng 3 năm gần đây 
khối Lớp 1 đã có số trẻ khuyết tật như sau: 
 Năm học 2007 – 2008 : Có 3 trẻ trong đó cả 3 đều thuộc dạng trẻ 
CPTTT 
 Năm học 2008 – 2009 : Có 8 trẻ trong đó có 6 đều thuộc dạng trẻ 
CPTTT 
 Năm học 2009 – 2010 : Có 4 trẻ trong đó cả 4 đều thuộc dạng trẻ 
CPTTT 
Riêng năm học này lớp tôi có 1trẻ CPTTT /32em học sinh của cảc 
lớp . 
 Thực tế cho thấy trẻ CPTTT luôn chiếm tỷ lệ cao trong khối vì 
vậy tôi muốn tìm hiểu vào lĩnh vực trẻ CPTTT. 
 Qua nghiên cứu của các nhà khoa học về trẻ CPTTT cũng như 
quan sát từ phía người dạy chúng tôi thầy rằng: 
 Trẻ CPTTT là những trẻ có khả năng nhận thức thấp hơn trẻ bình 
thường dẫn tới nhiều khó khăn cho các em trong sinh hoạt, học tập 
cũng như thực hiện các kỹ năng sống. Những biểu hiện của một trẻ 
CPTTT thì thường xuất hiện 18 tuổi. Với trẻ CPTTT các em tiếp 
thu, hiểu cái mới chậm nhưng rất mau quên điều vừa tiếp thu, các 
em ghi nhớ một cách máy móc và khó khăn hơn trẻ bình thường và 
rất hay mất tập trung, quên việc đang làm hay nói cách khác là bỏ 
dở . 
 Trong sinh hoạt , giao tiếp các em thường nói chậm phát âm sai 
do vốn từ ít, không tìm được từ để nói và một phần không hiểu lời 
nói của người giao tiếp . 
 Bên cạnh đó trẻ CPTTT cũng thường có những hành vi bất 
thường như tự nói một mình , nhìn chằm chằm một cách vô cảm và 
khoảng không trước mặt, thu mình lại, trầm cảm, im lặng cúi mặt ( 
gọi là hành vi hướng nội ..) . Một số trẻ khác lại có những hành vi 
hướng ngoại như : la, hét, phát biểu trong giờ học, chạy nhảy tự do 
trong giờ học, tự làm việc mình thích trong tiết học, chọc phá bạn 
 Trong số trẻ CPTTT có những em có vóc dáng không bình 
thường như : đầu to, hai mắt to, hơi lồi, có cái nhìn vô cảm, tay chân 
ngắn hoặc không thẳng  
 Với những đặc điểm về về sinh lý như trên trẻ CPTTT đã gặp 
nhiều khó khăn trong cuộc sống cũng như khi đến trường. Các em 
rất khó hoà nhập được trong các hoạt động học tập cũng như vui 
chơi , sinh hoạt cùng trẻ bình thường vì trẻ CPTTT không tiếp thu , 
trả lời viết hay tham gia vận động như các bạn khác. Thường thì các 
em không tự chủ được như các học sinh khắc, hành vi luôn diễn ra 
một cách tự phát chứ không theo sự hướng dẫn chủ đạo của thầy cô. 
Sự hưng phấn hay ức chế trong các em lộn xộn dẫn đến việc khó 
xác định việc gì đúng, việc gì sai, nên làm gì, không nên làm gì làm 
cho việc học tập của các em không hiệu quả, các em khó mà tự lập 
hay hoà nhập trong cộng đồng . 
2. Nguyên nhân của thực trạng 
2.1. Nguyên nhân sinh lý 
 Theo nhiều công trình nghiên cứu của các ngành sinh lý học, tâm 
lý học, giáo dục thì có 40% trẻ CPTTT chưa tìm hiểu được nguyện 
nhân 60% các trường hợp khác nhau gây nên CPTTT của trẻ như: bị 
tổn thương não, nhiễm độc từ môi trường, sự di truyền  có thể 
phân ra các nhóm nguyên nhân sau: 
 Nguyên nhân trước khi sinh: Có thể do di truyền hoặc mẹ mắc một 
số bệnh khi mang thai như thai suy dinh dưỡng, thiếu i-ốt, liều lượng 
thuốc nhiều, bệnh tâm lý, riêng thuốc nhiều khi không biết mình có thai 
nhiễm độc từ môi trường, hoặc do bố mẹ dùng chất kích thích,  
 Nguyên nhân trong khi sinh: Sinh non, sinh khó, thiếu ôxy cho thai 
nhi, dụng cụ y tế làm tổn thương não, quá trình sinh kéo dài . 
 Nguyên nhân sau khi sinh: Không đảm bảo vệ sinh môi trường 
sống, ngộ độc thức ăn, mắc dịch bệnh, biến chứng từ các bệnh như: sởi, 
đậu mùa, viêm màng não, bại liệt  và còn nguyên nhân nữa như sống 
cách ly xã hội trong thời gian dài  
 Nguyên nhân tâm lý và các yếu tố khác : 
- Gia đình khó khăn về kinh tế không có sự quan tâm đúng 
mức, sự chấp nhận số phận của trẻ dẫn đến việc không 
muốn đưa trẻ hoà nhập cộng đồng đến trường, lớp. 
- Đứa trẻ mặc cảm bị bỏ rơi hoặc vì lỗi khuyết tật của mình 
không muốn tiếp xúc với thế giới bên ngoài, không muốn 
đến trường. 
- Công tác tổ chức phối hợp giúp trẻ CPTTT của các bộ 
phận đoàn thể chưa mạnh. Việc tập huấn cho giáo viên về 
các kỹ năng dạy trẻ CPTTT còn nhiều hạn chế cũng như 
sự đầu tư cho trẻ CPTTT chưa đầy đủ với mục tiêu trong 
giai đoạn hiện nay . 
- Ngoài ra một số giáo viên còn ngần ngại khi tiếp nhận và 
giáo dục trẻ khuyết tật trong lớp mình . 
Những nguyên nhân trên đã phần lớn làm hạn chế đến việc 
giáo dục trẻ khuyết tật nói chung cũng như CPTTT nói riêng trong giai 
đoạn hiện nay. Vì vậy trong quá trình giảng dạy, chúng tôi đã có những 
biện pháp sau: 
3 . Một số biện pháp : 
3.1 Với giáo viên : 
3.1.1. Tìm hiểu khả hoàn cảnh khả năng và nhu cầu của trẻ. 
 Giáo viên chủ nhiệm phải tìm hiểu và nắm rõ đối tượng trẻ 
khuyết tật của lớp mình về hoàn cảnh lý do khuyết tật, tình trạng cuộc 
sống năng lực, nhu cầu, sở thích của trẻ thông qua giờ dạy trên lớp, các 
hoạt động học tập, lao động vui chơi, qua việc trò chuyện với trẻ, đến 
thăm gia đình trẻ. Giáo viên cần nắm rõ sự phát triển về thể chất, hình 
dáng bên ngoài, khả năng học tập, ngôn ngữ, sự ghi nhớ, tư duy, xúc 
cẩm hay nhận thức thế giới của trẻ. Cần có hồ sơ cá nhân với những 
thông tin chính xác theo mẫu của trường . 
3.1.2 Có kế hoạch cụ thể : 
 Từ những căn cứ trên giáo viên chủ nhiệm sẽ lập kế hoạch về 
mục tiêu giáo dục trẻ trong tiết học, một ngày học, một tuần, một 
tháng hay một học kỳ một cách cụ thể. Nếu thấy trẻ tiến bộ thì tiếp tục 
lên kế hoạch học thêm kiến thức, ngược lại giáo viên sẽ dừng lại để 
củng cố những kiến thức đã học . 
 Ví dụ: Trẻ : Nguyễn Trần Nguyên (CPTTT mức độ vừa) 
 Tuần 1 : Đọc được e , b , o 
 Tháng 9: Đọc viết được e , b , o , ô, ơ , e , ê 
 Đọc đếm các số từ 1 – 5 
 Tháng 10 : Ôn e , b , o , ô , ơ , e , ê,; học thêm i , u , ư 
 Tháng 11 : Nếu học sinh tiến bộ giáo viên sẽ lên kế hoạch kiến 
thức cũ cho trẻ nhớ . 
- Để giúp trẻ hà nhập lớp học ,phát huy năng lực bản thân ,mỗi 
giáo viên nên tạo sự gần gũi thân thiên với trẻ và niềm vui trong học 
tập,sinh hoạt.Giáo viên cần có kế hoạch bài dạy cụ thể. 
3.1.3 Giáo viên cần xây dựng cho trẻ một môi trường thuận lợi 
và thân thiện 
- Bằng cách sắp xếp, tổ chức trang trí lớp một cách gọn gàng hấp 
dẫn và bố trí cho trẻ vị trí phù hợp như ngồi gần một bạn biết quan tâm, 
chia sẻ với trẻ,biết động viên trẻ trong học tập giáo viên sẽ khơi gợi 
được sự hứng thú, say mê học tập của trẻ. Hơn nữa vị trí thuận tiện của 
trẻ sẽ giúp trẻ tiếp thu nhanh hơn,thuận tiện hơn trong học tập và tiện 
cho việc theo dõi, giúp đỡ của giáo viên từ đó giúp trẻ CPTTT có cơ 
hội học tập bạn bè, xoá bỏ mặc cảm, khả năng giao tiếp phát triển, hình 
thành nhiều kĩ năng trong sinh hoạt. 
 -Với trẻ CPTTT tư duy các em là tư duy cụ thể, máy móc, rời 
rạc, tiếp thu chậm, khó nhớ cái mới lại hay mau quên cái vừa tiếp thu 
nên khi giảng dạy trẻ kiến thức mới, kĩ năng mới giáo viên cần sử dụng 
đồ dùng trực quan phù hợp với nội dung bài học và đối tượng học. Đồ 
dùng trực quan cần có tính thẩm mỹ, khoa học và thực tế. 
 3.1.4 Điều chỉnh: 
3.1.4.1 Những nội dung cần điều chỉnh: 
 - Ở Tiểu học chưa có chương trình riêng cho học sinh CPTTT 
cũng như trẻ khuyết tật nhưng theo công văn số 896 của Bộ GD&ĐT 
và dựa trên cơ sở, điều kiện của từng địa phương trường lớp và mức độ 
khuyết tật của trẻ (nặng,vừa,nhẹ) mà giáo viên sẽ xây dựng một cách 
linh động mục tiểu học tập cho từng em. Qua đó giúp các em phát huy 
khả năng của mình , hội nhập cộng đồng. Giáo viên cần xác định rõ 
nhu cầu khả năng và sự cần thiết về lượng kiến thức mức độ dễ, khó 
của kiến thức, sự khả thi khi dạy kiến thức cho học sinh. Cùng với 
những điều trên đây giáo viên cần lựa chon hình thức dạy học cho phù 
hợp với trẻ, các hoạt động đồng loạt, hoạt động cá nhân, hoạt động 
nhóm  
 Ví dụ : Dạy Toán 
 + Dạy trẻ thực hiện : Tính: 
 1 + 1 = ? 1 + 2 = ? 
Trẻ có thể thực hiện được phép tính này , nhưng khi dạy các phép tính 
có kết quả cao hơn như : Tính: 
 3 + 2 = ? 4 + 3 = ? 
Lúc này GV có thể dùng que tính để giúp trẻ tính hay dùng ĐDDH có 
hình các con vật gần gũi với chúng ta

File đính kèm:

  • pdfskkn_cac_bien_phap_giup_tre_cham_phat_trien_tri_tue_o_lop_mo.pdf