Sáng kiến kinh nghiệm - Một số phương pháp nâng cao chất lượng dạy - Học môn Đạo đức lớp 1

1.2/ Hình thành cho học sinh các kỹ năng:

Muốn cho học sinh có thể ứng xử tốt trước mọi tình huống cụ thể, giáo viên cần từng bước giúp cho học sinh phân tích, nhận xét, đánh giá từng hành vi đạo đức các em được học qua mỗi bài. Từ đó hình thành cho học sinh các kỹ năng. Đó là kỹ năng nhận xét, đánh giá hành vi của bản thân và những người xung quanh theo chuẩn mực đã học, kỹ năng lựa chọn và thực hiện các hành vi ứng xử phù hợp các chuẩn mực, các quan hệ và tình huống đơn giản, cụ thể của cuộc sống, biết nhắc nhở bạn bè cùng thực hiện. Cụ thể:

- Biết đánh giá sự chuẩn bị của mình cho việc đi học.

- Biết giữ gìn vêï sinh cá nhân, đầu tóc quần áo gọn gàng, sạch sẽ.

- Biết yêu quí và giữ gìn sách vở, đồ dùng học tập.

- Biết yêu quí gia đình mình. Yêu thương kính trọng ông bà, cha mẹ, anh chị em.

- Biết cư xử lễ phép với anh chị, nhường nhịn em nhỏ trong gia đình.

- Biết tự hào mình là người Việt Nam, tôn kính Quốc kỳ và yêu quí Tổ quốc Việt Nam.

- Biết đánh giá, nhận xét về việc đi học đúng giờ và trễ giờ.

- Biết ý thức giữ trật tự khi ra, vào lớp và khi ngồi học.

- Biết đánh giá hành vi lễ phép, vâng lời thầy, cô giáo.

- Biết nhận xét, đánh giá hành vi của bản thân, của người khác khi học và khi chơi với bạn. Hành vi ứng xử với bạn khi học và khi chơi.

- Biết thực hiện đi bộ đúng qui định.

- Biết nói lời cảm ơn, xin lỗi trong các tình huống giao tiếp hàng ngày.

- Biết tôn trọng, lễ độ với mọi người, quí trọng những bạn biết chào hỏi, tạm biệt đúng.

- Biết bảo vệ cây và hoa nơi công cộng.

1.3/ Giáo dục học sinh từng bước hình thành thái độ:

Muốn kết quả giáo dục Đạo đức được như ý muốn, sau mỗi chuẩn mực, hành vi đạo đức, giáo viên cần liên hệ, giáo dục các em biết lắng nghe ý kiến đưa ra của học sinh, khuyến khích tinh thần tự học hỏi vươn lên của học sinh. Uốn nắn kịp thời những gì không phù hợp với các chuẩn mực hành vi đạo đức các em đã học. Từ đó hình thành ở học sinh thái độ tự trọng, tự tin, yêu thương, tôn trọng con người, yêu cái thiện, cái đúng, cái tốt; không đồng tình với cái ác, cái sai, cái xấu. Cụ thể đối với học sinh lớp Một:

- Biết yêu quí bạn bè, thầy cô giáo trong lớp.

- Có thói quen ăn mặc gọn gàng, sạch sẽ.

- Có thói quen giữ gìn sách vở và đồ dùng học tập.

- Quí trọng, yêu thương ông bà, cha mẹ, anh chị em.

- Luôn lễ phép với anh chị, nhường nhịn em nhỏ hơn mình.

- Có kỹ năng nhận biết sờ Tổ quốc, phân biệt tư thế chào cờ đúng và tư thế sai. - Biết nghiêm trang trong các giờ chào cờ đầu tuần.

- Có thói quen đi học đều và đúng giờ.

- Có ý thức trật tự trong và ngoài giờ học.

- Có ý thức vâng lời, lễ phép với thầy cô giáo.

- Biết cư xử tốt với bạn bè khi học và khi chơi.

- Có ý thức tuân theo qui định đối với người đi bộ.

- Có thói quen biết cảm ơn khi người khác giúp và xin lỗi khi làm phiền người khác.

 

doc 22 trang camtu 07/10/2022 5620
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm - Một số phương pháp nâng cao chất lượng dạy - Học môn Đạo đức lớp 1", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm - Một số phương pháp nâng cao chất lượng dạy - Học môn Đạo đức lớp 1

Sáng kiến kinh nghiệm - Một số phương pháp nâng cao chất lượng dạy - Học môn Đạo đức lớp 1
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Đề tài
MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY - HỌC MÔN ĐẠO ĐỨC LỚP 1
A – LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Bác Hồ của chúng ta đã từng nói: “Người có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó. Người có tài mà không có đức thì vô dụng”
Vậy đạo đức là gì? Ta hiểu như thế nào là đạo đức? Đứng về phương diện triết học thì đạo đức là một hình thái ý thức của xã hội, bao gồm chuẩn mực xã hội, có tác dụng điều chỉnh hành vi của con người trong quan hệ với người khác, với xã hội.
Theo nhà giáo dục người Nga I- li –na: Đạo đức là cách ứng xử của người này đối với người khác, đối với xã hội.
Ta thấy vấn đề đạo đức đối với con người có vai trò rất quan trọng. Việc giáo dục đạo đức có vai trò quan trọng.
Ở lứa tuổi tuổi lớp Một nói riêng cũng như học sinh tiểu học nói nói chung, môn Đạo đức mang nội dung ý nghĩa của chuẩn mực hành vi đạo đức trong các hoạt động và mối quan hệ xã hội. Do đó môn đạo đức ngoài nhiệm vụ trau dồi kiến thức bước đầu về hành vi đạo đức nó là bước đầu của việc hình thành nhân cách của học sinh nói chung cũng như học sinh tiểu học nói riêng. Vấn đề cần đặt ra với đội ngũ nhà giáo, về vấn đề giáo dục đạo đức cho các em học sinh như thế nào để đạt được hiệu quả cao nhất đặc biệt là lứa tuổi học sinh lớp Một hiểu biết về vấn đề đạo đức gần như một tờ giấy trắng.
Lâu nay nhiều thế hệ thầy cô giáo đã trăn trở góp nhiều công sức cải tiến các phương pháp giáo dục đạo đức cho học sinh. Tuy vậy các em học sinh khi gặp các tình huống đơn giản các em có thể xử lý được thì các em lại quay mặt làm ngơ hay quay sang chửi thề, nói tục. Điều đó làm ảnh hưởng không nhỏ đến nhân phẩm của người học sinh nói chung đặc biệt là học sinh tiểu học.
Từ những thực tế trên làm cho mỗi giáo viên yêu nghề, mến trẻ nào cũng phải quan tâm và tìm cách giải quyết cho mình.
Muốn đạt được hiệu quả trong quá trình giảng dạy, tôi nhận thấy người giáo viên cần phải lựa chọn các phương pháp, kỹ năng và biện pháp như thế nào để các em học sinh của mình lĩnh hội được những chuẩn mực hành vi đạo đức tốt.
Qua thực tế giảng dạy và tình hình học sinh lớp 1/ 2 nói riêng, trường tiểu học Bù Nho nói chung tôi được sự hỗ trợ rất nhiều của Ban giám hiệu nhà trường và các đồng nghiệp. Từ đó tôi đã tích lũy được một số kinh nghiệm để dạy môn Đạo đức lớp Một. Đó là lí do chọn đề tài: “MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY VÀ HỌC MÔN ĐẠO ĐỨC”.
B/ ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH:
I/ THUẬN LỢI:
- Trường tôi nằm gần khu trung tâm thương mại nên có nhiều người đến đây làm ăn sinh sống. Do đó đời sóng của nhân dân được nâng cao, hoạt động văn hóa giáo dục ngày càng phát triển.
- Luôn được sự quan tâm của huyện, chuyên môn huyện, chuyên môn trường dự giờ góp ý, xây dựng bài, rút kinh nghiệm đặc trưng của bộ môn
- Việc đổi mới chương trình và sách giáo khoa kèm theo cải cách lại phương pháp dạy học làm cho công tác giảng dạy có hiệu quả hơn.
- Luôn được các cấp lãnh đạo, ban ngành đoàn thể, Ban chấp hành Hội cha mẹ học sinh quan tâm.
 - Tập thể lớp yêu thương đoàn kết, tham gia tích cực các phong trào do ngành và nhà trường phát động.
- Phong trào giáo dục đạo đức là một vấn đề được mọi cấp, mọi ngành, mọi người quan tâm giúp đỡ.
- Tập thể học sinh ham hiểu biết, thích tìm tòi và khám phá những điều các em cho là mới lạ.
II / KHÓ KHĂN:
	- Tổng số lớp 1/ 2 năm học 2007- 2008 có 27 em (13 nữ và 14 nam) trong đó có 16 em là dân địa phương còn 11 em có địa chỉ là tạm trú nên rất khó khăn trong việc liên hệ giữa giáo viên và phụ huynh học sinh.
	- Trường thuộc xã trung tâm đang phát triển nên các em học sinh từ nhiều tỉnh chuyển đến rất nhiều như: Đồng Tháp, Trà Vinh, Long An,  Gia đình các em chỉ lo đến việc mưu sinh, ít có thời gian giáo dục cho các em, chỉ khoán trắng cho nhà trường với một câu “Trăm sự nhờ cô”
	- Trình độ các em không đồng đều, nhiều em chưa được qua mẫu giáo, nhiều em quá tuổi vào lớp Một, các em này ở nhà chơi lêu lổng, nhiễm thói hư, tật xấu.
	- Ở lớp Một, các em là lớp bắt đầu chuyển từ hoạt động chơi sang học. Các em chưa quen nên trong quá trình dạy các em chưa tập trung chú ý.
- Chương trình thay sách giáo khoa mới này đối với bậc phụ huynh còn bỡ ngỡ, chưa biết dạy các em như thế nào cho đúng.
- Đối với việc đánh giá học sinh bằng nhận xét như hiện nay rất khó cho việc đánh giá từng học sinh một cách chính xác.
- Đối với tôi, người trực tiếp phụ trách giảng dạy các em làm thế nào để cho tất cả học sinh có thể nhận thức đúng được hành vi đạo đức, xử lý tốt được các tình huống đơn giản, gần gũi với đời sống hàng ngày quả là một điều rất khó, nó đòi hỏi người giáo viên phải nỗ lực phấn đấu vượt qua.
C/ BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
I/ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH THỰC HIỆN:
1. Tìm hiểu học sinh: 
- Muốn giáo dục học sinh về đạo đức thì ta phải hiểu biết học sinh về mọi mặt. Thật vậy muốn tác động lên học sinh, người giáo viên phải biết các em đã tốt mặt nào, chưa tốt mặt nào, bao nhiêu em đạt, bao nhiêu em chưa đạt. Từ đó giáo viên mới đưa ra biện pháp giáo dục cụ thể cho từng đối tượng một cách phù hợp hơn.
Với mục đích này đòi hỏi người giáo viên phải tìm hiểu kỹ đối tượng mình cần giáo dục. Cụ thể:
a/ Tìm hiểu hoàn cảnh cụ thể:
Khi tôi nhận lớp có 27 em trong đó chỉ có nửa lớp qua lớp mẫu giáo. Với tỷ lệ học sinh này thì số học sinh chưa qua trường lớp là hơi cao. Các em chủ yếu sống tự do, không được sự dìu dắt của giáo viên nên các hành vi ứng xử của các em chưa nắm rõ sai trái, đôi khi các em chưa nhận thức được. Mặt khác đối với các em học sinh lớp Một, một số em chưa được tham gia sinh hoạt ở trường, lớp nên các hiểu biết về chuẩn mực hành vi đạo đức của các em gần như là một tờ giấy trắng. Do đó các em chưa nhận thức được các hành vi đạo đức rõ ràng nên có khi các em tự quyết định những hành vi còn hạn chế. Vì vậy, khi các em tiếp xúc với người lớn, với bạn bè, quyết định vấn đề còn là điều rất đáng quan tâm. Một phần các em còn là do tác động của hoàn cảnh sống của một số em còn khó khăn. Đa số các em ít gần gũi cha mẹ do cha mẹ quá bận rộn trong việc mưu sinh. Vì vậy vấn đề giáo dục đạo đức cho các em là rất cần thiết để xây dựng cho học sinh có được những điều sơ đẳng của phép ứng xử đúng đắn trong cuộc sống hằng ngày. Giáo dục đạo đức nhằm tạo cho học sinh những chuẩn mực hành vi đạo đức tốt trong các hoạt động ứng xử và các mối quan hệ xã hội.
b/ Tìm hiểu đặc điểm tâm lý học sinh lớp Một:
 	Để giáo dục học sinh có hiệu quả, giáo viên cần nói rõ đặc điểm của học sinh lớp mình phụ trách. Tối đã đi vào nghiên cứu và thấy đối học sinh lớp Một là có tâm lý “thích được khen”. Đây là một qui luật không thể thiếu trong đời sống tập thể của trẻ. Do đó tiết Đạo đức giáo viên cần động viên khuyến khích khen thưởng tổ, cá nhân học sinh đã thực hiện tốt các hành vi đã học. Bên cạnh đó cần nhắc nhở những em chưa thực hiện tốt, song phải lấy động viên, khuyến khích là chính.
Mặt khác ở lứa tuổi học sinh này đã xuất hiện những nhu cầu mới về cả đối tượng thỏa mãn, lẫn cách thức thỏa mãn. Trước hết nó xuất hiện một loạt các nhu cầu cần gắn với cuộc sống nhà trường. Đó là nhu cầu mong muốn thực hiện chính xác mọi yêu cầu của giáo viên về điểm tốt, về lĩnh hội cái mới, đảm nhận các trọng trách tập thể giao cho trong hệ thống nhu cầu của học sinh tiểu học, nhu cầu nhận thức nổi lên và giữ vai trò chủ đạo (ham hiểu biết). Các nhu cầu tinh thần chiếm ưu thế trong cuộc sống của trẻ. Trong nhu cầu của các em, một loạt hành vi đạo đức của các em được hình thành, một loạt hành vi thói quen được hình thành.
Như chúng ta đều biết, học sinh tiểu học có tính hồn nhiên, khả năng phát triển tính cách của trẻ tạo cơ sở cho khả năng phát triển một hệ thống tính cách của các em. Đặc điểm này nói lên rằng cái xuyên suốt trong tâm hồn của học sinh tiểu học là ngây thơ, trong trắng, hồn nhiên và ẩn chứa những tiềm năng phát triển lớn. Học sinh tiểu học cả tin tuyệt đối vào thầy cô, người lớn bạn bè, sách và cả bản thân mình nữa. Vì vậy mọi hoạt động trên lớp cũng như lời nói của giáo viên phải chính xác, mẫu mực để các em noi theo.
Ngoài ra ta còn thấy học sinh tiểu học có tính sẵn sàng hành động, khuynh hướng hành động ngay lập tức dưới tác động của các kích thích mà không kịp suy nghĩ, cân nhắc. Vì thế giáo viên cần hướng các em cách phân tích hành vi ứng xử trước một tình huống trước khi đưa ra quyết định cuối cùng.
Ở học sinh tiểu học ta còn thấy các em rất thật thà, các em không thích khoe khoang, không suy nghĩ đến điều phức tạp, thích bộc lộ nguyên dạng bản thân mình. Do đó giáo viên cần hướng dẫn các câu hỏi tình huống gắn gọn , chân thật gắn với cuộc sống hàng ngày.
Ngoài việc tìm hiểu học sinh, là giáo viên cần phải quan tâm hàng ngày và phải đề ra những phương pháp và kỹ năng như thế nào để dạy cho các em nắm được các hành vi ứng xử đạo đức của các em đem lại kết quả cao.
Từ những thuận lợi và khó khăn qua tôi đã đề ra các biện pháp để thực hiện dạy học môn Đạo đức hiệu quả hơn.
2. Xây dựng kế hoạch :
2.1/ Xây dựng kế hoạch phân loại học sinh:
Muốn giáo dục được tất cả học sinh, giáo viên cần phân loại học sinh để có phương pháp cho phù hợp. Tôi nhận thấy nguyên nhân các em chưa nắm rõ các hành vi trong ứng xử là do các em chưa được qua trường lớp hay chưa được cha mẹ quan tâm, giáo dục thường xuyên. Để khắc phục tình trạng trên của các em do lớp tôi phụ trách tôi đã phân đối tượng học sinh như sau:
+ Nhanh nhẹn, biết ứng xử tình huống nhạy bén: 7 em
+ Nhanh nhẹn, ứng xử tình huống chưa nhạy bén: 4 em
+ Chậm biết ứng xử tình huống: 4 em
+ Chậm không biết ứng xử: 12 em
Từng bước hình thành thái độ tự trọng tự tin, yêu thương tôn trọng con người, yêu cái thiện, cái đúng, cái tốt; không đồng tình với cái ác, cái sai, cái xấu.
2.2/ Nâng cao phương pháp dạy đạo đức:
Nắm vững các phương pháp dạy học đạo đức cho học sinh, giáo viên có thể vận dụng linh hoạt các phương pháp cho một bài học cụ thể để phù hợp với đối tượng học sinh của lớp mình. Giáo viên có thể kết hợp linh hoạt các phương pháp dạy học sau:
w Phương pháp động não: Động não là phương pháp giúp cho học sinh trong một thời gian ngắn nảy sinh được nhiều ý t ... đổi bổ sung
- Tôi tổng kết lại các ý kiến.
â Ví dụ: Trong bài “Trật tự trường học”.
	- Tôi chia lớp thành 2 dãy, mỗi dãy lại chia thành các nhóm 4 em, các nhóm có nhiệm vụ quan sát tranh 1 hoặc 2 trong vở Bài tập Đạo đức trang 26 và thảo luận việc ra vào lớp của các bạn trong tranh.
- Các nhóm của dãy A thảo luận tranh số 1, các nhóm của dãy B thảo luận tranh số 2.
Dãy A	Dãy B
- Đại diện các nhóm trình bày kết quả thảo luận các nhóm khác nhận xét bổ sung.
- Cả lớp trao đổi tranh luận: Em có suy nghĩ gì về việc làm của bạn trong tranh 2. Nếu em có mặt ở đó em sẽ làm gì?
- Sau khi học sinh tranh luận và phát biểu. Tôi kết luận lại: Khi ra vào lớp, các em phải xếp hàng và đi theo thứ tự, không chen lấn xô đẩy khi ra vào lớp làm ồn ào mất trật tự và có thể gây ra vấp ngã. Cô mong rằng các em đã nhận thấy lợi ích của việc xếp hàng trật tự ra vào lớp, cô mong các em thực hiện tốt.
2.5/ Phương pháp kể chuyện:
Dạy đạo đức ở lớp Một có thể bắt đầu bằng truyện kể đạo đức, truyện kể về cách ứng xử của nhân vật trong tình huống cụ thể, thường là gương tốt để từ đó giáo viên hướng dẫn học sinh phân tích, khái quát thành chuẩn mực hành vi đạo đức các em cần thực hiện. Phương pháp kể chuyện rất phù hợp với học sinh lớp Một . Nó giúp cho bài học đạo đức đến với trẻ một cách tự nhiên, nhẹ nhàng, sống động.
Để câu chuyện kể lôi cuốn được học sinh, tôi lựa chọn câu chuyện sát với chủ đề bài học trong một tình huống cụ thể. Tôi nắm thật vững nội dung câu chuyện , nhập tâm vào câu chuyện. Khi kể, tôi nhấn mạnh vào chi tiết chủ yếu của truyện, giọng kể khoan thai, rõ ràng, truyền cảmTrong khi kể, tôi kết hợp vừa sử dụng tranh hoặc làm điệu bộ hay biểu diễn minh họa.
â Ví dụ: Khi dạy bài “Lễ phép với anh chị, nhường nhịn em nhỏ”
Không như thường lệ, tôi không giới thiệu bài mới ngay mà tôi hỏi học sinh: Các em có thích nghe cô kể chuyện cho các em nghe không? Hôm qua chủ nhật ở nhà cô sưu tầm được mẩu chuyện, cô nghĩ rằng em nào cũng thích nghe. Nhưng trước khi kể cô muốn sau khi nghe chuyện này, các em cho cô biết câu chuyện muốn nói với các em điều gì được không? Khi tôi dứt lời, cả lớp đồng thanh: Thưa cô chúng em đồng ý! Tôi bắt đầu kể cho các em nghe câu chuyện “Hai chị em”
Sau khi xong, tôi hỏi: Lúc đầu Hà lấy túi màu gì? (màu xanh). Em Thúy có thích túi màu xanh không? (Không, Thuý thích túi màu đỏ). Thúy nói gì với Hà? (Chị đổi cho em cái túi đỏ với). Hà có đổi cho em không? (Hà không đổi). Hà Không đổi em Thúy làm sao? (Thuý khóc). Nhìn thấy em khóc Hà thấy thế nào? (Hà thương em quá). Thương em Hà đã làm gì? (Hà đưa túi màu đỏ cho em). Hiểu ra câu chuyện Thúy làm gì? (Đến bá cổ chị). Qua truyện này muốn nói chúng ta điều gì? (Là anh chị cần nhường nhịn em nhỏ). Từ đó tôi mới giới thiệu bài học hôm nay “Lễ phép anh chị, nhường nhịn em nhỏ”
Vận dụng các phương pháp nhuần nhuyễn, kết hợp nhiều phương pháp tránh nhàm chán ở các em.
Cần đánh giá công bằng, chính xác việc học tập của các em. Tôi luôn là người hướng dẫn tổ chức các hoạt động học tập của các em qua ngôn ngữ nói và hoạt động nên đòi hỏi tôi phải rèn luyện cho mình thói quen nói và làm việc phải mẫu mực chính xác.
Sử dụng lời nói một cách thích hợp, cường độ nói vừa đủ cả lớp nghe rõ, chú ý thay đổi cường độ tốc độ, tuỳ thuộc vào nội dung bài giảng, sử dụng ngôn ngữ phù hợp trình độ của các em.
Lứa tuổi các em là lứa tuổi hồn nhiên, chân thật. Vì vậy cần đối xử với các em một cách tự nhiên, thể hiện sự quan tâm chăm sóc, dạy dỗ tôn trong các em, tỏ thái độ nhiệt tình vui vẻ, dễ gần gũi vì tất cả các em muốn đánh giá tốt về mình.
2.6/ Tổ chức trò chơi thi đua “làm việc tốt”:
Tôi chia lớp thành 4 tổ thi đua. Mỗi tổ tôi phát một cuốn sổ để thi đua, nếu bạn nào trong tổ vào thứ sáu hàng tuần khi sinh hoạt chủ nhiệm cô tuyên dương bạn đó làm được một số việc tốt hay được tuyên dương thành tích đặc biệt thì cô sẽ thưởng cho một bông hoa màu xanh. Cả tổ cử được mưòi bông hoa màu xanh thì cô thưởng một bông hoa màu đỏ, các tổ thi đua theo từng nhóm, từng học kỳ nếu tổ nào được nhiều bông hoa màu đỏ sẽ được cô thưởng viết hoặc sáp màu Nhờ vậy mà các em tích cực thi đua học tốt rõ rệt hẳn lên.
2.7/ Giáo dục đạo đức qua các môn học khác:
	Ở trên lớp, tôi không chỉ dạy môn Đạo đức mà tôi phải dạy các môn bắt buộc: Toán, Tiếng Việt, Tự nhiên và Xã hội, Thủ công Do đó khi học đến bài học nào tôi cũng liên hệ để giáo dục học sinh.
â Ví dụ: Khi học bài tập đọc “Bàn tay mẹ”
	Khi dạy học sinh tìm hiểu nội dung bài với câu hỏi: Đọc câu văn nói lên tình cảm của Bình đối với bàn tay mẹ? Sau khi học sinh trả lời, tôi hỏi học sinh: Bình rất yêu mẹ, còn các em thì sao? Vì sao các em lại yêu mẹ?...Tôi nói các em biết: Cha mẹ phải cực khổ đi làm để nuôi các em khôn lớn, cho các em đi học, cho nên các em phải biết yêu thương, kính trọng, vâng lời cha mẹ để cha mẹ vui lòng. Hay khi học bài “Cây hoa”, khi học sinh tìm hiểu về lợi ích của hoa. Học sinh nêu ích lợi của hoa là dùng để trang trí, làm nước hoa, làm thức ăn. Tôi liền hỏi: Cây hoa có ích lợi như vậy các em cần làm gì để bào vệ cây hoa?. Học sinh sẽ nêu được cách chăm sóc và bảo vệ cây và hoa. Việc liên hệ và giáo dục các em liên tục thường xuyên như vậy góp phần rất lớn trong việc giáo dục đạo đức cho các em; đòi hỏi việc làm này cần có sự kiên trì, cẩn thận và lòng yêu nghề mến trẻ.
2.8/ Kết hợp Gia đình – Nhà trường – Xã hội:
Ngoài việc học ở trên lớp, các em về còn sống với gia đình, xã hội. Do đó ngoài việc giáo dục các em ở lớp, tôi còn thường xuyên liên hệ với gia đình, cùng phụ huynh kết hợp giáo dục học sinh cách học, cách làm việc. Tạo điều kiện cho các em vui chơi hoà nhập với cộng đồng. Nếu em nào có biểu hiện không bình thường về mặt tâm lý là tôi hỏi han, tìm hiểu nguyên nhân, nếu là nguyên nhân từ gia đình hay từ nơi em sinh sống là tôi liên hệ với gia đình tìm cách giải quyết ổn thoả để các em yên vui học tập.
2.9/ Tổ chức giáo dục qua các hoạt động ngoại khoá:
Ngoài việc học ở trên lớp, tôi còn vận động các em tham gia các hoạt động ngoại khoá, thông qua các hoạt động ngoại khoá mà giáo dục học sinh.
âVí dụ: Ở lớp tôi năm nào cũng thế gần tết Nguyên Đán tôi thường phát động phong trào “Nắm gạo tình thương”. Khi phát động phong trào đó tôi sẽ kể cho các em nghe các câu chuyện về các học sinh có hoàn cảnh khó khăn Hơn nữa tôi cho các em tự tìm hiểu trong lớp mình có những bạn nào có hoàn cảnh khó khăn các em nghèo thiếu đồ dùng học tập, nhịn ăn sáng? Các em biết chia sẻ với hoàn cảnh của bạn, các em nói với ba mẹ về hoàn cảnh của các bạn cho ba mẹ hay, xin ba mẹ bớt chút ít để ủng hộ bạn cùng ăn tết. Nhờ đó mà lớp tôi góp được hàng trăm ngàn đồng để giúp cho các bạn nghèo. Ngày làm lễ trao cho các bạn học sinh nghèo, các em tận mắt chứng kiến, các em tỏ ra rất vui mừng vì các em đã làm được một việc tốt là biết chia sẻ khó khăn với các bạn của mình Nhờ hoạt động ngoại khoá như vậy là điều kiện để các em thực hiện những gì các em đã học.
D/ KẾT QUẢ:
Qua việc dạy đạo đức như trên tôi đã thu được kết quả như sau:
Hiện nay giờ đạo đức có rất nhiều em giơ tay xung phung phát biểu ý kiến, tham gia các trò chơi, báo cáo trình bày phần thảo luận các em say mê tích cực tìm hiểu xây dựng bài. Kết quả cụ thể như sau:
Phân loại HK
Đầu năm
Cuối HKI
Cuối HKII
Tổng số
%
Tổng số
%
Tổng số
%
Hoàn thành tốt 
6
22,2
9
33,3
16
59,3
Hoàn thành
10
37,0
12
44,4
11
40,7
Chưa hoàn thành
11
40,7
6
22,2
0
0
 	Về kết quả học tập của các em
Phân loại HL
Đầu năm
Cuối HKI
Cuối HK II
Tổng số
%
Tổng số
%
Tổng số
%
HS giỏi
4
14,8
7
25,9
11
40,7
HS khá 
8
29,6
11
40,7
13
48,1
HS TB
10
37,0
8
29,6
3
11,1
HS yếu
5
18.5
3
11,1
0
E/ BÀI HỌC KINH NGHIỆM :
Để đạt được hiệu quả cao về giáo dục đạo đức cho học sinh, tôi rút ra bài học kinh nghiệm như sau:
- Giáo viên cần trang bị cho mình kiến thức phương pháp cơ bản về dạy đạo đức lớp Một.
- Phải phối hợp nhịp nhàng bằng nhiều hình thức giáo dục, giáo dục mọi nơi mọi lúc.
- Giáo viên phải thực sự gương mẫu về ngôn ngữ nói, các hoạt động cụ thể thiết thực trước mắt học sinh.
- Lựa chọn các biện pháp thích hợp, đây cũng là công việc đều đặn và kiên trì, phải phối hợp nhịp nhàng giữa thầy – trò – gia đình – xã hội, chắc chắn kết quả học tập và rèn luyện của học sinh sẽ tiến bộ.
- Tổ chức dạy học bằng nhiều hình thức trong một tiết học để thu hút tất cả các học sinh tham gia vào hoạt động lĩnh hội kiến thức mới.
- Tổ chức cho các em thực hành để vận dụng các khái niệm đã học trên lớp.
- Luyện tập rút gọn những hành vi đã được hình thành, thực hiện những tình huống tương tự nhưng tinh tế hơn.
- Luyện thành thói quen những hành vi của học sinh đã ổn định thành nhu cầu của học sinh.
F/ KẾT THÚC VẤN ĐỀ:
 Giáo dục đạo đức là quá trình lâu dài đòi hỏi phải kiên trì, không được nôn nóng; phải tổ chức các hoạt động phong phú, đa dạng trong nhà trường, có sự thống nhất giữa giáo dục nhà trường – gia đình – xã hội trong việc giáo dục đạo đức cho học sinh.
 Với phương pháp và kỹ năng áp dụng vào dạy môn Đạo đức ở lớp Một nói riêng và môn Đạo đức ở tiểu học nói chung nhằm tạo cho học sinh hiểu biết những kiến thức sơ đẳng, căn bản về chuẩn mực, hành vi đạo đức. Học sinh dần dần hình thành thói quen biết ứng xử các tình huống đơn giản về cuộc sống hàng ngày đối với bản thân, gia đình, cộng đồng. Từ những kinh nghiệm nhỏ bé này, tôi sẽ cố gắng học hỏi đồng nghiệp, sách báo nhiều hơn nữa để hiệu quả tiết dạy môn Đạo đức nói riêng và dạy tất cả các môn học khác nói chung ngày càng đạt hiệu quả cao hơn, thực hiện thiết thực phong trào thi đua “Dạy tốt, học tốt” và các cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, “Hai không” với 4 nội dung mà Đảng và ngành Giáo dục đang phát động.
Trong đề tài này chắc chắn sẽ không tránh khỏi những tồn tại, thiếu sót. Vì vậy tôi kính mong quí cấp lãnh đạo, các đồng chí đồng nghiệp có những ý kiến đóng góp xác đáng để đề tài của tôi được hoàn thiện hơn cả về nội dung và hình thức.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
....., ngày ... tháng ... năm 20..
Người viết
......

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_phuong_phap_nang_cao_chat_luong.doc