Báo cáo biện pháp Một số giải pháp giúp học sinh học chậm môn toán tiến bộ lớp 1

Môn Toán lớp 1 mở đường cho trẻ đi vào thế giới kỳ diệu của toán học, rồi mai đây các em lớn lên các em còn tiến bước xa hơn, nhưng không bao giờ các em quên được những ngày đầu tiên đến trường học đếm và tập viết, học các phép tính cộng, trừ vì đó là kĩ niệm đẹp đẽ nhất trong suốt cuộc của của các em.

Bậc Tiểu học cũng được coi như cái nền móng của ngôi nhà tri thức. Chính vì vậy bậc tiểu học đã tạo những cơ sở ban đầu rất cơ bản và bền vững cho các em tiếp tục học các bậc học trên. Nội dung giảng dạy của tiểu học luôn gắn liền với thực tiễn, phục vụ thiết thực cho cuộc sống, không chỉ có thế mà mỗi môn học ở tiểu học đều góp phần vào việc hình thành và phát triển nhân cách học sinh. Trong các môn học, môn toán là một trong những môn có vị trí rất quan trọng. Các kiến thức, kỹ năng của môn toán có nhiều ứng dụng trong đời sống, giúp học sinh nhận biết mối quan hệ về số lượng và hình dạng không gian của thế giới hiện thực.

Nhằm giúp học sinh nắm vững kiến thức toán một cách liên tục và có hệ thống là cần thiết để học sinh học tốt môn toán. Khả năng tính toán và giải toán có lời văn chính là phản ánh năng lực vận dụng kiến thức của học sinh, thông thường trong các đề toán đưa ra cho học sinh đọc - hiểu - biết hướng giải đưa ra phép tính kèm câu trả lời và đáp số của bài toán.

 

doc 14 trang Thảo Ly 18/08/2023 4482
Bạn đang xem tài liệu "Báo cáo biện pháp Một số giải pháp giúp học sinh học chậm môn toán tiến bộ lớp 1", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Báo cáo biện pháp Một số giải pháp giúp học sinh học chậm môn toán tiến bộ lớp 1

Báo cáo biện pháp Một số giải pháp giúp học sinh học chậm môn toán tiến bộ lớp 1
KINH NGHIỆM GIẢNG DẠY
MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIÚP HỌC SINH 
HỌC CHẬM MÔN TOÁN TIẾN BỘ LỚP 1
A MỞ ĐẦU
1. LÝ CHỌN ĐỀ TÀI: 
	Môn Toán lớp 1 mở đường cho trẻ đi vào thế giới kỳ diệu của toán học, rồi mai đây các em lớn lên các em còn tiến bước xa hơn, nhưng không bao giờ các em quên được những ngày đầu tiên đến trường học đếm và tập viết, học các phép tính cộng, trừ vì đó là kĩ niệm đẹp đẽ nhất trong suốt cuộc của của các em.
Bậc Tiểu học cũng được coi như cái nền móng của ngôi nhà tri thức. Chính vì vậy bậc tiểu học đã tạo những cơ sở ban đầu rất cơ bản và bền vững cho các em tiếp tục học các bậc học trên. Nội dung giảng dạy của tiểu học luôn gắn liền với thực tiễn, phục vụ thiết thực cho cuộc sống, không chỉ có thế mà mỗi môn học ở tiểu học đều góp phần vào việc hình thành và phát triển nhân cách học sinh. Trong các môn học, môn toán là một trong những môn có vị trí rất quan trọng. Các kiến thức, kỹ năng của môn toán có nhiều ứng dụng trong đời sống, giúp học sinh nhận biết mối quan hệ về số lượng và hình dạng không gian của thế giới hiện thực.
Nhằm giúp học sinh nắm vững kiến thức toán một cách liên tục và có hệ thống là cần thiết để học sinh học tốt môn toán. Khả năng tính toán và giải toán có lời văn chính là phản ánh năng lực vận dụng kiến thức của học sinh, thông thường trong các đề toán đưa ra cho học sinh đọc - hiểu - biết hướng giải đưa ra phép tính kèm câu trả lời và đáp số của bài toán. Trong quá trình tính toán và giải toán có lời văn góp phần củng cố kiến thức toán, rèn luyện kỹ năng diễn đạt, góp phần phát triển tư duy cho học sinh tiểu học. Cho nên dạy toán có ý nghĩa to lớn ở tiểu học. Chính vì vậy là giáo viên giảng dạy tôi rất bân khuân những vấn đề này. Nên tôi đã lực chọn sáng kiến kinh nghiệm “ Một số giải pháp giúp học sinh học chậm môn toán tiến bộ lớp 1” 
2. MỤC TIÊU:
	Mục tiêu môn Toán nhằm giúp học sinh:
 Bước đầu có một số kiến thức cơ bản, đơn giản, thiết thực về phép đếm, về các số tự nhiên trong phạm vi 100, về độ dài và đo độ dài trong phạm vi 20, về tuần lễ và ngày trong tuần, về giờ đúng trên mặt đồng hồ; về một số hình học (Đoạn thẳng, điểm, hình vuông, hình tam giác, hình tròn); về bài toán có lời văn.
Hình thành và rèn luyện các kĩ năng thực hành đọc, viết, đếm, so sánh các số trong phạm vi 100; cộng trừ và không nhớ trong phạm vi 100; đo và ước lượng độ dài đoạn thẳng( với các số đo là số tự nhiên trong phạm vi 20 cm). Nhận biết hình vuông, hình tam giác, hình tròn, đoạn thẳng, điểm, vẽ điểm, đoạn thẳng).Giải một số dạng bài toán đơn về cộng trừ bước đầu biết biểu đạt bằng lời, bằng kí hiệu một số nội dung đơn giản của bài học và bài thực hành, tập so sánh, phân tích, tổng hợp, trừu tượng hoá, khái quát hoá trong phạm vi của những nội dung có nhiều quan hệ với đời sống thực tế của học sinh.
Chăm chỉ, tự tin, cẩn thận ham hiểu biết và học sinh có hứng thú học toán. 
3. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU:
	Kinh nghiệm nghiên cứu cần thực hiện các nhiệm vụ sau: 
	3.1. Nghiên cứu thực trạng học sinh liên quan đến rèn học toán cho học sinh lớp 1.
“ Một số giải pháp giúp học sinh học chậm môn toán tiến bộ” cho học sinh lớp 1/3 trường TH Hiếu Thành, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh long”.
	3.2. Tìm ra những giải pháp đem lại hiệu quả trong việc học toán cho học sinh lớp 1.
	3.3. Đề xuất với cấp trên tạo điều kiện giúp đỡ về mọi mặt để thực hiện tốt trong việc giảng dạy môn toán.
4. PHẠM VI ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
	4.1. Đối tượng nghiên cứu:
	- Nghiên cứu mọi hoạt động liên quan đến học toán cho học sinh lớp 1. 
	- Nghiên cứu tâm lí đối tượng học sinh để tìm ra biện pháp nhằm giúp học sinh học toán tốt hơn.
	- Lớp 1/3 – Trường Tiểu học Hiếu Thành.
	4.2. Mục đích nghiên cứu: 
- Nhằm giúp đỡ các em học sinh yếu vươn lên trong học tập; nắm vững các kiến thức cơ bản và kỹ năng toán 1 để làm nền tảng vững chắc cho các lớp trên, hăng say trong giờ học toán, nâng cao chất lượng dạy, học; hạn chế tối thiểu tỉ lệ học sinh yếu. Đồng thời cũng để trang bị cho tôi kiến thức sau này áp dụng trong quá trình giảng dạy. 
- Rèn học sinh tính chăm chỉ, tự tin, cẩn thận ham hiểu biết và học sinh có hứng thú học toán.
- Chia sẻ với đồng nghiệp kinh nghiệm về phương pháp dạy phụ đạo học sinh học yếu toán. 
- Nghiên cứu dạy giải toán có lời văn
+ Dạy cho học sinh nhận biết về cấu tạo của bài toán có lời văn.
+ Đọc hiểu - phân tích - tóm tắt bài toán.
+ Giải toán đơn về thêm (bớt ) bằng một phép tính cộng ( trừ).
+ Trình bày bài giải gồm câu lời giải + phép tính + đáp số.
+Tìm lời giải phù hợp cho bài toán bằng nhiều cách khác nhau
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
	Nghiên cứu đề tài này tôi sử dụng các phương pháp sau:
	5.1. Phương pháp chính: Phương pháp hỏi đáp, đàm thoại mở, học nhóm, thi đọc, thăm dò ý kiến về đọc đúng, luyện tập, nêu gương.
	5.2. Phương pháp hỗ trợ: Phương pháp điều tra. Đọc tài liệu. 
	5.3. Phương pháp nghiên cứu: 
- Phương pháp dạy các môn học ở lớp 1
- Mục tiêu dạy học môn toán 1- sách giáo viên.
	- Một số tài liệu khác
- Đánh giá quá trình dạy toán - Loại bài giải toán có lời văn từ những năm trước và những năm gần đây .
- Tiến hành khảo sát chất lượng học sinh .
- Đúc rút kinh nghiệm qua quá trình nghiên cứu.
5.4. Phương pháp trắc nghiệm. 
5.5. Cơ sở nghiên cứu: Tổng hợp thông qua các tài liệu ,sách giáo khoa và thực tiễn dạy học của lớp 1/3- khối I-Trường tiểu học Hiếu Thành. 
B NỘI DUNG 
1.CƠ SỞ LÝ LUẬN:
Học sinh lớp 1 đã chuyển từ giai đoạn hoạt động vui chơi ở mẫu giáo, sang giai đoạn hoạt động học tập. Sự chuyển đổi hoạt động chủ đạo này có tác động lớn đến tâm lý của trẻ. Khả năng học toán chính là phản ánh năng lực vận dụng kiến thức của học sinh. Học sinh hiểu về mặt nội dung kiến thức toán học vận dụng vào giải toán kết hợp với kiến thức Tiếng Việt để giải quyết vấn đề trong toán học. Từ ngôn ngữ thông thường trong các đề toán đưa ra cho học sinh đọc - hiểu - biết hướng giải đưa ra phép tính kèm câu trả lời và đáp số của bài toán. 
Một điểm đổi mới trong phương pháp dạy học hiện nay luôn coi trọng việc lấy học sinh làm trung tâm, người thầy chỉ đóng vai trò là người giúp các em đi đúng hướng, giúp các em tiếp thu kiến thức một cách chủ động, sáng tạo. Chính vì vậy, ở lớp 1, việc phát triển trí thông minh cho trẻ thông qua môn toán là hết sức cần thiết.
2. THỰC TRẠNG:
	2.1.Thuận lợi:
	- Năm học 2020 – 2021, tôi được Ban Giám Hiệu phân công dạy lớp Một/3. Tổng số học sinh là 39 em trong đó có 16 nữ, bố trí tại điểm Kinh B. Gia đình học sinh phần lớn sống bằng nghề nông.
	- Bản thân đã được tập huấn về chương trình lớp 1.
	- Học sinh gia đình ở gần trường được gia đình quan tâm đến việc học của các em.
	- Đa số học sinh ngoan, có ý thức học tập tốt, tích cực tham gia các hoạt động của lớp, của nhà trường. 
- Sách giáo khoa toán có kênh hình rất đẹp, sinh động gần gũi với đời sống của trẻ.
- Mỗi phòng lớp Một đều được trang bị 01 bộ đồ dùng dạy học Toán- màn hình ti vi.
- Học sinh được trang bị mỗi em 01 bộ đồ dùng học Toán.
- Được sự giúp đõ của Ban Giám Hiệu trường: tổ chức sinh hoạt chuyên môn, dự giờ hàng tháng, tổ chức những buổi học chuyên đề thảo luận về chuyên môn để rút ra những ý kiến hay, những đề xuất kinh nghiệm tốt áp dụng trong việc giảng dạy
	2.2. Khó khăn:
	- Do nội dung dạy Toán mang tính trừu tượng.
	- Do sự nhận thức của học sinh lớp Một không đồng đều
	- Một số em tiếp thu kiến thức, hình thành kĩ năng tính toán chậm; khả năng phân tích tổng hợp, tư duy còn hạn chế không có khả năng vận dụng kiến thức vào bài tập; thái độ thờ ơ đối với học tập, ham chơi, lười học ngại cố gắng, chưa tự giác, chưa có động cơ học tập còn ỷ lại trông chờ giáo viên.
	- Một số phụ huynh chưa thật sự quan tâm, chăm lo và đôn đốc con em mình học tập, còn phó thác cho thầy cô.
	Thực tế cho thấy lớp 1/3 tôi giảng dạy qua theo dõi đầu năm tôi tổng hợp kết quả như sau:
TS
Nữ
Điểm 9-10
Điểm 7 - 8
Điểm 5-6
Điểm dưới 5
Đầu năm
39
16
SL
TL
SL
TL
SL
TL
SL
TL
6
15,3%
13
33,3%
8
20,5%
12
30,7%
3. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN:
Xuất phát từ khó khăn trên mà tôi đã có những giải pháp sau để tháo gỡ khó khăn đó làm cho việc giảng dạy môn toán được dễ dàng hơn.
	3.1. Nắm được đặc điểm tâm lý và phát triển của học sinh học chậm môn Toán.
 Với kinh nghiệm đã nhiều năm dạy lớp Một, bản thân nhận thấy đặc điểm tâm lý của trẻ em ở lứa tuổi này dễ chịu sự tác động ý chí trực tiếp bên ngoài, các em rất nhút nhát, thiếu tự tin, không dám phát biểu, tôi luôn phải mất thời gian để trò chuyện gần gũi động viên tinh thần các em, để em cảm thấy cô giáo rất thương mình, quan tâm đến mình nhiều hơn các bạn.
Lớp 1 là bước đầu chuyển từ hoạt động vui chơi sang hoạt động học tập. Vào trường học các em phải tiếp xúc với những công việc đòi hỏi có trách nhiệm và bắt buộc phải làm, mặc dù những công việc này khó khăn. Ở đây đôi khi các em phải khắc phục tình trạng mệt mỏi, không ham thích và phải nỗ lực ý chí, nhiệm vụ của người thầy, người cô là làm cho trẻ chuyển từ nếp sống trước tuổi học sang hoạt động học tập một cách thoải mái và vừa sức, chú ý đến các khả năng của các em đồng thời giải thích cho các em thấy rõ vị trí và nhiệm vụ mới của mình, nhưng phải thực sự tế nhị và phải có lòng yêu nghề mến trẻ.
. 	3.2. BiÖn ph¸p kh¾c phôc học sinh học chậm môn Toán.
3.2.1. Học sinh chưa nắm được khái niệm số từ 1 - 100.
 Những em chưa nắm các số từ 1 đến 100 các em chậm hiểu lại mau quên, các em không có khả năng ghi nhớ ngay sau khi học, em chỉ nhớ những gì đơn giản dễ hiểu. Trí nhớ kém khả năng chú ý không có vì thế việc học gặp nhiều khó khăn, từ đó mà các em không thích học.
Đối với diện này, tôi dạy các em nhớ từ số, dấu, qua cách luyện đọc và luyện nghe, quan sát như sau:
+ Khi xếp hàng vào lớp em thứ nhất số mấy, hàng nào, buộc em đó phải nhớ vị trí xếp hàng.
+ Xếp theo thứ tự từ 1 - 10, cho xếp thuận rồi xếp ngược, cho em quay mặt đi, đảo một vài số rồi hỏi em đã thay đổi vị trí số nào so với lúc đầu. Chúng tôi còn luyện em nhớ tên các bạn trong lớp. Để tránh học vẹt mỗi khi học bài mới. Tôi luôn kiểm tra bài cũ, chỉ không thứ tự các bài trước để giúp  ... nh nêu “Một bông hoa và một bông hoa là mấy bông hoa? Rồi học sinh trả lời (một bông hoa và một bông hoa là hai bông hoa) và viết 2 vào sau dấu bằng để có 1 + 1 = 2.
- Nêu bài toán bằng lời.
- Nêu câu trả lời.
- Và điền phép tính thích hợp (với tình huống trong tranh).
 Học sinh tập nêu bằng lời: “có 2 con thỏ thêm 1 con thỏ. Hỏi có tất cả bao nhiêu con thỏ? ” rồi tập nêu miệng câu trả lời “có tất cả 3 con thỏ”. Sau đó viết vào ô trống để có phép tính đúng
Viết phép tính thích hợp “ tức là nhìn vào tranh và các thao tác đính vật mẫu của giáo viên để đính phép tính, đến phần giải bài toán các em được làm quen với “ Đặt đề bài toán” (theo tóm tắt đã ghi trong SGK) hai phần này có quan hệ mật thiết với nhau nên học sinh cần nắm vững cấu tạo của một bài toán có lời văn gồm có 2 phần chính là những cái đã cho (đã biết) và cái phải tìm (chưa biết).
Giáo viên cần cho học sinh đọc kĩ đề toán, hiểu rõ một số từ khóa quan trọng như “thêm vào, tất cả” hoặc bớt, bay đi, còn lại..” (có thể kết hợp với tranh vẽ để học sinh quan sát).
 Khi dạy các bài toán có lời văn cho đối tượng này tôi thường sử dụng tranh ảnh, hoặc que tính để hướng dẫn học sinh, vì đối với các em trí nhớ rất chậm cho nên tôi hướng dẫn từng phần theo các bước cụ thể như sau:
Bước 1: tôi cho 2 em đọc đề toán, cả lớp đọc thầm theo, sau đó tôi hướng dẫn em tìm hiểu bài toán qua tranh ảnh. 
Bước 2: Khi học sinh đã hiểu được bài toán. Cho biết gì? Bài toán hỏi gì? Tôi hướng dẫn em cách giải bài toán như sau: tôi nêu câu hỏi để học sinh trả lời: 
 	Bước 3: Tôi hướng dẫn học sinh viết bài giải của bài toán, ghi bài giải sau đó viết câu trả lời, muốn viết được câu trả lời thì em phải dựa vào câu hỏi. 
Học sinh được tự đặt đề bài toán dựa vào thao tác trên các vật mẫu, (tranh ảnh) nên dễ dàng nắm được đề bài từ đó các em sẽ giải được bài toán một cách nhanh chóng. 
Ví dụ như: học sinh cầm tay phải có 4 que tính, tay trái có 3 que tính, sau đó gần lại với nhau nhìn vào số que tính và dựa vào thao tác để tự đặt một đề bài toán. Chẳng hạn “Tay phải em cầm 4 que tính, tay trái em cầm 3 que tính. Hỏi hai tay em cầm mấy que tính? ” Hoặc Có 4 que tính lấy thêm 3 que tính nữa. “Hỏi có tất cả bao nhiêu que tính?”. Khi học sinh đã mắt thấy tai nghe, hiểu được bài toán cho gì? Bài toán hỏi gì? Thì các em mới giải được bài toán.
3.2.5. Đối với học sinh học chậm có tính cẩu thả: 
Với cá tính này nếu giáo viên không uốn nắn, sửa chữa kịp thời thì sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến trẻ. Vì lớp Một là lớp quan trọng bởi những gì đã hình thành và định 
hình ở trẻ rất khó thay đổi.
Mỗi khi các em quên mang đồ dùng học tập thì sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến giờ học mà đối tượng này lại thường xuyên quên mang sách, vở, bút, bảng con Qua trao đổi với phụ huynh các em, tôi biết được bố mẹ các em đi làm xa nhà hoặc rất bận việc ở ngoài đồng và đa số là buôn bán đi sớm về tối nên hầu như không kiểm tra hoặc chuẩn bị sách vở cho con em đi học được. 
Vì thế để tự các em cũng có thể sắp xếp đồ dùng theo thời khóa biểu thì ngay từ những tuần đầu, tôi hướng dẫn em cách sắp xếp ngăn nắp. Những tập sách mà ngày nào cũng sử dụng để chung một ngăn tủ ở lớp, những quyển sách, vở nào cần mang đi theo thời khóa biểu thì để riêng, nên dù chưa đọc được chữ các em cũng tự chuẩn bị được sách, vở đồ dùng học tập cho mình một cách đầy đủ mà không cần bố mẹ làm hộ. Dần dần các em ở đối tượng này hình thành thói quen bớt cẩu thả và hạn chế quên mang dụng cụ.
Trong những giờ rèn viết bảng con tôi thường lưu ý đến đối tượng này, tôi sửa chữa từng nét, từng số, cách đặt dấu cộng, trừ dấu bằng cho các em, khi học sinh làm bài tập trong bảng con hoặc bảng lớp tôi theo dõi quan sát cả lớp và chỉ ra những chổ chưa đúng, chưa đẹp để các em sửa chữa, tôi luôn khen, động viên mỗi khi có tiến bộ. 
Ví dụ: như hôm nay thầy dạy số 5 thì em phải viết vào vở số 5, cách viết thì tôi sẽ viết mẫu 1 số vào vở rồi em nhìn vào chữ mẫu tự viết. Những ngày kiểm tra tôi không cho biết trước, vì làm như thế các em không dám bỏ qua. Từ đó các em đã có thói quen viết ngay hàng, không cong vẹo, tập học sạch sẽ hơn, em không còn có thói quen viết ngoáy mà đã tự có ý thức rèn chữ, rèn số. 
3.2.6. Kết hợp với phụ huynh học sinh:
Tôi thường xuyên trao đổi với những cha mẹ có học sinh học học chậm môn Toán, nhằm phổ biến nội dung phụ đạo học sinh cho phụ huynh biết để chăm lo và nhắc nhở con em mình. Vì vậy việc đảm bảo chuyên cần, luôn phải thực hiện tốt, phụ huynh không nên để cho con nghỉ học khi không cần thiết.
Trong giờ học có các bài tập trong sách giáo khoa đã dược giáo viên hướng dẫn làm ở lớp, nhưng vì đối tượng là học sinh học chậm nên giáo viên hướng dẫn phụ huynh cho các em làm lại các bài tập đó ở nhà với sự kiểm soát của phụ huynh.
3.2.7. Kiểm tra, đánh giá:
 Việc kiểm tra, đánh giá năng lực học tập của học sinh là việc làm thường xuyên và liên tục mà đặc biệt là đối với học sinh học chậm cần phải thực hiện nhiều hơn. Chúng ta đánh giá học sinh không phải chỉ để xếp loại mà chủ yếu là để đánh giá lại phương pháp tổ chức dạy học của chúng ta có đạt hiệu quả hay không, nội dung dạy học cho các em học sinh học chậm đã phù hợp chưa. Từ đó giáo viên có kế hoạch điều chỉnh cho phù hợp. Ngoài ra giáo viên còn xác định được học sinh học chậm mặt nào và tìm ra nguyên nhân để giáo dục tốt hơn.
4. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC:
	Ở lớp Một, các em đang trong giai đoạn vui chơi chuyển sang hoạt động học tập. Các em còn rất hiếu động, thích hoạt động, cho nên hoạt động học tập mang tính chất học mà chơi, chơi mà học sẽ kích thích sự tìm tòi học hỏi từ đó sẽ phát triển được tư duy của các em. 
Tôi nhận thấy đối với học sinh học chậm nếu không được quan tâm giáo dục, hướng các em vào việc học thì dần dần các em sẽ không còn hứng thú học tập nữa mà các em rất chán học lười viết bài, vào lớp hay làm việc riêng, không chịu viết bài đợi thầy cô nhắc nhở nhiều lần mới chịu tập trung vào viết bài học. Từ đó dẫn đến hổng kiến thức trong một tiết dạy tôi thường xuyên quan tâm đến đối tượng học sinh học chậm tạo cho em thấy được sự quan tâm chăm sóc của thầy cô dành cho mình là nhiều hơn các bạn, làm cho em cảm thấy vui khi đi học, không còn cảm thấy áp lực, khó chịu như trước nữa. 
Tôi luôn vận dụng những kiến thức các em đã có để hình thành kiến thức mới, nghĩa là tạo tình huống có vấn đề sẽ kích thích học sinh hứng thú tích cực trong học tập, các em tỏ ra chăm ngoan, tự tin, có ý thức học tập, tạo nền tảng tiền đề vững chắc cho các lớp học sau này.
Kết quả cuối học kì I so với đầu năm đã có tiến bộ rõ rệt, nhiều em tự giác học tập. đó chính là nguồn động viên tinh thần cho tôi trong công tác giảng dạy.
TS
Nữ
Điểm 9-10
Điểm 7 - 8
Điểm 5-6
Điểm dưới 5
Đầu năm
39
16
SL
TL
SL
TL
SL
TL
SL
TL
6
15,3%
13
33,3%
8
20,5%
12
30,7%
Học kì I
39
16
15
38,4%
16
41%
8
20,5%
5. KHẢ NĂNG NHÂN RỘNG:
	Sáng kiến kinh nghiệm của tôi đã được thực nghiệm trong quá trình giảng dạy và đạt được kết quả khả quan. Sáng kiến kinh nghiệm có thể áp dụng rộng rãi trong dạy học toán lớp 1 ở bậc Tiểu học.
TT
Tên đồng nghiệp đã vận dụng sáng kiến kinh nghiệm của tôi
Nhận định đánh giá
Kí tên xác nhận
1
Nguyễn Ánh Thu
..
..
2
Nguyễn Thị Bèo
C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ: 
1. Kết luận:
Qua nhiều năm giảng dạy, tôi nghĩ muốn học sinh học tốt môn toán đòi hỏi người giáo viên luôn yêu nghề mến trẻ, phải chịu khó, tận tuỵ, nhiệt tình kịp thời giúp đỡ những học sinh có hoàn cảnh khó khăn, học sinh học còn chậm, ngoài ra giáo viên phải tỏ ra nghiêm khắc, kiên trì, bền bỉ, nhẫn nại giúp các em khắc phục những nhược điểm của mình và phát huy những ưu điểm. Dạy Toán cần phải sáng tạo, nhạy bén để tìm ra cách dạy dễ hiểu mà không sai lệch phương pháp bộ môn để học sinh học đạt kết quả tốt. Phải chuẩn bị tốt đồ dùng dạy học cho mỗi bài dạy và biết tìm lời giới thiệu bài thích hợp để gây hứng thú cho học sinh lúc học tập và khắc sâu kiến thức cho học sinh.
Phối hợp cùng với gia đình học sinh, học chậm môn Toán để giáo viên và phụ huynh có biện pháp chung để giáo dục các em học tốt hơn.
Như vậy trong công tác giáo dục học sinh nhỏ tuổi nhất là đối với học sinh học còn chậm ở lớp Một đòi hỏi người giáo viên phải có nhiều say mê biết đi sâu vào tâm hồn trẻ, có phương pháp giảng dạy và giáo dục riêng có như thế mới tạo cho học sinh hứng thú học tập, tích luỹ kiến thức.Từ đó sẽ giúp các em học tốt, nắm vững được các số, biết so sánh, thực hiện thành thạo các phép tính từ đơn giản đến phức tạp và giải được bài toán có lời văn, học tốt các môn học khác của chương trình lớp Một.
2. Đề xuất: 
Để nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường tiểu học nói chung, hiệu quả chất lượng môn Toán nói riêng, tôi xin đề xuất một vài ý kiến sau:
- Giáo viên phải thường xuyên theo dõi, kiểm tra và khắc phục tình trạng học sinh làm sai phép tính, đề xuất biện pháp cụ thể. Mỗi Giáo viên phải có một sổ tay riêng để ghi lại những bài toán hay những phép tính mà học sinh hay làm sai để rèn luyện cho học sinh. 
- Về thiết bị dạy học bổ sung thêm các thiết bị, tranh ảnh. Bộ đồ dùng học Toán cho giáo viên và học sinh phải to rõ ràng, tiện lợi khi sử dụng. 
- BGH nhà trường cần động viên, khuyến khích kịp thời với những giáo viên đảm nhiệm công việc này.
- Lãnh đạo phòng Giáo dục tổ chức các chuyên đề về việc phụ đạo HS học chậm môn toán để giáo viên có cơ hội trao đổi học hỏi lẫn nhau. 
Trên đây là một số vấn đề mà trong quá trình thực hiện nghiên cứu tôi đã mạnh dạn đưa ra nhằm đóng góp một phần nhỏ vào việc nâng cao chất lượng dạy học và nhất là môn Toán ở cấp tiểu học. rất mong sự đóng góp của đồng nghiệp, ban giám hiệu nhà trường và các cấp lãnh đạo để sáng kiến của tôi được hoàn thiện hơn.
 HiếuThành, ngày 11 tháng 1 năm 2021
	 Người viết 	 
 Võ Văn Minh Thắng
Kinh nghiệm này đã được thông qua HĐKH
Của trường và thực hiện có kết quả tốt.
Xếp loại:........................
Hiếu thành, ngày tháng năm 202
Hiệu trưởng
Nguyễn Văn Tư
Hội đồng khoa học huyện xác nhận sáng kiến kinh nghiệm
Đạt điểm:..........
Ngày.......tháng......năm.........
Trưởng phòng

File đính kèm:

  • docbao_cao_bien_phap_mot_so_giai_phap_giup_hoc_sinh_hoc_cham_mo.doc