Báo cáo biện pháp Một số giải pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 1

Đọc là một hoạt động của lời nói là quá trình chuyển dạng chữ viết sang lời nói có dấu thanh chính vì vậy sự mong muốn lớn nhất của trẻ là được đến trường, được học, được viết, được vui chơi cùng bạn bè. Đọc nhằm nêu lên những biện pháp nhằm hình thành và phát triển một cách có hệ thống về năng lực đọc cho học sinh. Xuất phát từ quan điểm chung của ngành Giáo dục nói chung và bậc Tiểu học nói riêng, đã và đang tiến hành phương pháp dạy học đối với tất cả các môn học trong đó có môn Tập đọc. Mặt khác, tập đọc là một phân môn mang tính tổng hợp, bởi bên cạnh việc dạy học chúng ta còn trau dồi kiến thức về Tiếng Việt, kiến thức về văn học, về đời sống, giáo dục tình cảm, thẩm mĩ cho học sinh, trong đó kỹ năng đọc là sự khởi đầu giúp cho học sinh chiếm lĩnh một công cụ mới để sử dụng trong học tập và trong giao tiếp là chìa khóa để vận dụng chữ viết trong học tập. Khi biết đọc, biết viết các em có điều kiện nghe lời thầy giảng trên lớp, sử dụng sách giáo khoa, sách tham khảo. . Từ đó, các em có điều kiện học tốt các môn học khác có trong chương trình.

 Ở lớp 1các em bắt đầu làm quen với các kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết, . Kĩ năng đọc rất quan trọng, nếu kĩ năng đọc được rèn luyện tốt, hình thành tốt sẽ giúp các em đọc tốt suốt cả cuộc đời, giúp các em phát triển tư duy, cảm nhận cái hay, cái đẹp trong mỗi bài học, hiểu được nghĩa của tiếng, từ, câu, đoạn văn, bài văn mình vừa đọc, hiểu được các lệnh các yêu cầu trong các môn học khác. Nếu các em đọc không được thì các em không viết được, không hiểu được văn bản và không thể học tốt các môn khác trong chương trình bậc học. Việc rèn kĩ năng đọc cho học sinh tiểu là rất quan trọng, lớp 1 là lớp “nền móng” nên rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 1 càng quan trọng hơn.

 

doc 13 trang Thảo Ly 18/08/2023 22541
Bạn đang xem tài liệu "Báo cáo biện pháp Một số giải pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 1", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Báo cáo biện pháp Một số giải pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 1

Báo cáo biện pháp Một số giải pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 1
KINH NGHIỆM GIẢNG DẠY
MỘT SỐ GIẢI PHÁP RÈN KĨ NĂNG ĐỌC CHO HỌC SINH LỚP 1
A MỞ ĐẦU
1. LÝ CHỌN ĐỀ TÀI: 
	Đọc là một hoạt động của lời nói là quá trình chuyển dạng chữ viết sang lời nói có dấu thanh chính vì vậy sự mong muốn lớn nhất của trẻ là được đến trường, được học, được viết, được vui chơi cùng bạn bè. Đọc nhằm nêu lên những biện pháp nhằm hình thành và phát triển một cách có hệ thống về năng lực đọc cho học sinh. Xuất phát từ quan điểm chung của ngành Giáo dục nói chung và bậc Tiểu học nói riêng, đã và đang tiến hành phương pháp dạy học đối với tất cả các môn học trong đó có môn Tập đọc. Mặt khác, tập đọc là một phân môn mang tính tổng hợp, bởi bên cạnh việc dạy học chúng ta còn trau dồi kiến thức về Tiếng Việt, kiến thức về văn học, về đời sống, giáo dục tình cảm, thẩm mĩ cho học sinh, trong đó kỹ năng đọc là sự khởi đầu giúp cho học sinh chiếm lĩnh một công cụ mới để sử dụng trong học tập và trong giao tiếp là chìa khóa để vận dụng chữ viết trong học tập. Khi biết đọc, biết viết các em có điều kiện nghe lời thầy giảng trên lớp, sử dụng sách giáo khoa, sách tham khảo.. Từ đó, các em có điều kiện học tốt các môn học khác có trong chương trình. 
	Ở lớp 1các em bắt đầu làm quen với các kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết,. Kĩ năng đọc rất quan trọng, nếu kĩ năng đọc được rèn luyện tốt, hình thành tốt sẽ giúp các em đọc tốt suốt cả cuộc đời, giúp các em phát triển tư duy, cảm nhận cái hay, cái đẹp trong mỗi bài học, hiểu được nghĩa của tiếng, từ, câu, đoạn văn, bài văn mình vừa đọc, hiểu được các lệnh các yêu cầu trong các môn học khác. Nếu các em đọc không được thì các em không viết được, không hiểu được văn bản và không thể học tốt các môn khác trong chương trình bậc học. Việc rèn kĩ năng đọc cho học sinh tiểu là rất quan trọng, lớp 1 là lớp “nền móng” nên rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 1 càng quan trọng hơn. 
Kỹ năng đọc cho học sinh lớp Một là nhu cầu cấp thiết, đó cũng là sự phản hồi của kết quả tiếp thu sau một quá trình học tập của các em. Nó giúp học sinh nhận biết các con chữ, các vần, và khả năng ghép chữ cái với nhau thành vần, ghép chữ cái với vần thành tiếng và đọc câu sau cùng là đọc được một bài văn ngắn, một bài thơ ngắn v..v 
 Học sinh đã nhận được mặt chữ, biết ghép vần, ghép tiếng, ghép từ, đọc câu còn yêu cầu các em phải đọc đúng, đọc chuẩn, đọc chính xác. Vì nếu các em phát âm chuẩn đọc đúng các em sẽ viết đúng, bài chính tả sai ít lỗi, và các em sẽ hiểu được ý của tiếng, từ, câu, bài mà các em viết.
Từ đó, thông qua hoạt động đọc giúp học sinh được mở rộng hiểu biết về thiên nhiên, về đất nước, về cuộc sống con người, về văn hóa, văn minh, phong tục, tập quán của dân tộc trên đất nước mình và trên thế giới. Chính vì vậy, dạy đọc có một ý nghĩa rất to lớn
ở Tiểu học. Nên nó trở thành một đòi hỏi cơ bản đầu tiên đối với người đi học. Đọc là
một khả năng không thể thiếu được của con người trong thời đại văn minh. Chính vì
vậy, là một giáo viên giảng dạy tôi rất băn khoăn những vấn đề này. Nên tôi đã
lực chọn sáng kiến kinh nghiệm “ Một số kĩ năng rèn đọc cho học sinh lớp 1” 
2. MỤC TIÊU:
	Mục tiêu môn Tiếng Việt nhằm giúp học sinh:
Hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt ( Nghe, nói, đọc, viết).
Môn Tiếng Việt ở Tiểu học nhằm trang bị cho học sinh các kĩ năng đọc, nghe, nói, viết. Riêng ở phân môn Học vần, trong bốn kĩ năng trên, đọc và viết được đặc biệt ưu tiên. Điều này có nguyên nhân từ mục tiêu của phân môn là dạy chữ - một phương tiện biểu đạt lời nói đặc biệt hiệu quả mà học sinh lớp 1 hầu như chưa biết tới.
Thông qua việc dạy và học Tiếng Việt góp phần rèn luyện các thao tác của tư duy. 
Cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về Tiếng Việt và những hiểu biết sơ giản về xã hội, tự nhiên và con người, về văn hóa, văn học của Việt Nam và nước ngoài.
Bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của Tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.”
 Từng bước hình thành thái độ tự trọng, tự tin; yêu thương, tôn trọng con người; yêu cái thiện, cái đúng, cái tốt, không đồng tình với cái ác, cái sai, cái xấu. 
3. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU:
	Kinh nghiệm nghiên cứu cần thực hiện các nhiệm vụ sau: 
	3.1. Nghiên cứu thực trạng học sinh liên quan đến rèn đọc cho học sinh lớp 1.
" Một số kĩ năng rèn đọc cho học sinh lớp 1/5 trường TH Hiếu Thành, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh long”.
	3.2. Tìm ra những giải pháp đem lại hiệu quả trong việc rèn đọc cho học sinh lớp 1.
	3.3. Đề xuất với cấp trên tạo điều kiện giúp đỡ về mọi mặt để thực hiện tốt hơn công tác này.
4. PHẠM VI ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
	4.1. Đối tượng nghiên cứu:
	- Nghiên cứu mọi hoạt động liên quan đến rèn đọc cho học sinh lớp 1. 
	- Nghiên cứu tâm lí đối tượng học sinh để tìm ra biện pháp nhằm giúp học sinh đọc tốt hơn.
	- Lớp 1/5 – Trường Tiểu học Hiếu Thành.
	4.2. Mục đích nghiên cứu: 
- Sáng kiến kinh nghiệm nhằm mục đích tìm ra phương pháp và hướng đi giúp học sinh học tập tốt hơn. Qua đó từng bước nâng cao năng lực đọc đúng, đọc hay, đọc diễn cảm của mỗi học sinh.
. Về đọc đúng: Học sinh đọc đúng các phụ âm đầu vần, thanh,đọc đúng tiếng từ,câu, đoạn văn, bài văn, bài thơ.
. Đọc hay, đọc diễn cảm: Học sinh khi đọc bài văn, bài thơ phải biết ngắt nghỉ đúng các dấu chấm, dấu phẩy, dấu chấm hỏi, dấu chấm cảm. Khi đọc biết lên giọng, hạ giọng ở những câu văn, bài thơ, hơn nữa là đọc phân vai
. Học sinh hiểu được nội dung văn bản và thể loại (văn xuôi hay thơ), từ đó học sinh có thái độ, tình cảm đúng trong cuộc sống.
. Thông qua dạy học giúp các em có điều kiện tiếp cận và nắm bắt các môn học, hiểu 
các văn bản, tiếp thu và chiếm lĩnh được tri thức, tự tin khi giao tiếp nhằm góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam hiện đại, phát triển toàn diện về mọi mặt Đức -Trí -Thể -Mĩ cho học sinh.
	- Giúp học sinh yêu thích môn tập đọc, phát huy khả năng học tiếng việt để từ đó tiếp thu tốt các môn khác.
	- Góp phần nâng cao giáo dục môn tiếng việt trong nhà trường.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
	Nghiên cứu đề tài này tôi sử dụng các phương pháp sau:
	5.1. Phương pháp chính: Phương pháp hỏi đáp, đàm thoại mở, học nhóm, thi đọc, thăm dò ý kiến về đọc đúng, luyện tập, nêu gương.
	5.2. Phương pháp hỗ trợ: Phương pháp điều tra. Đọc tài liệu. 
	5.3. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu về đặc điểm tâm lí học sinh lớp 1.
5.4. Phương pháp trắc nghiệm. 
5.5. Cơ sở nghiên cứu: Trường tiểu học Hiếu Thành. Tập thể lớp 1/5.
B NỘI DUNG 
1.CƠ SỞ LÝ LUẬN:
Học sinh lớp 1 đã chuyển từ giai đoạn hoạt động vui chơi ở mẫu giáo, sang giai đoạn hoạt động học tập. Sự chuyển đổi hoạt động chủ đạo này có tác động lớn đến tâm lý của trẻ. Những hiểu biết về về tâm sinh lý của trẻ lớp 1 đã hình thành khả năng tư duy bằng tín hiệu, là những tín hiệu thay thế ngữ âm. Từ đây các em có khả năng tập tách từ thành tiếng, thành âm và chữ. Với lớp 1 điều quan trọng nhất là đọc, viết. Có đọc được tốt học sinh mới hiểu được nội dung văn bản và lên lớp trên học sinh mới học tốt được các môn học khác. 
Hiện nay, ở nhà trường Tiểu học, việc rèn kỹ năng đọc đạt kết quả chưa cao. Tình trạng này do nhiều nguyên nhân, song nguyên nhân lớn nhất là cách thức về phương pháp rèn đọc chưa được coi trọng. Trên thực tế, nếu không có kỹ năng đọc thì học sinh không có điều kiện để học các môn học khác, không thể tiếp thu tri thức của nhân loại. Vì vậy, việc dạy đọc cho học sinh có ý nghĩa to lớn.
Rèn đọc tốt cho học sinh chính là công cụ tốt nhất để các em học tốt các môn khác. Đó chính là hành trang theo các em vào đời. để rèn đọc tốt cho học sinh đòi hỏi người giáo viên dạy lớp 1 phải có một phương pháp dạy tốt, lòng say mê nghề nghiệp và sự nhiệt tình, bền bỉ để giúp các em đọc tốt, đọc hay.
2. THỰC TRẠNG:
	2.1.Thuận lợi:
	- Năm học 2019 – 2020, tôi được Ban Giám Hiệu phân công dạy lớp Một/5. Tổng số học sinh là 19 em trong đó có 8 nữ, bố trí tại điểm Kinh B. Gia đình học sinh phần lớn sống bằng nghề nông.
	- Bản thân đã được tập huấnvề chương trình Tiếng Việt 1- CGD
- Sĩ số học sinh không đông, thuận lợi cho việc kiểm tra (nhận xét bài thường xuyên, phát hiện lỗi sai kịp thời để học sinh sữa chữa và khắc phục).
	- Học sinh gia đình ở gần trường được gia đình quan tâm đến việc học của các em.
	- Đa số học sinh ngoan, có ý thức học tập tốt, tích cực tham gia các hoạt động của lớp, của nhà trường. Một số em đã biết tất cả các chữ cái khi vào đầu lớp Một. Học sinh có đầy đủ SGK và đồ dùng học tập. 
- Được sự giúp đõ của Ban Giám Hiệu trường: tổ chức sinh hoạt chuyên môn, dự giờ hàng tháng, tổ chức những buổi học chuyên đề thảo luận về chuyên môn để rút ra những ý kiến hay, những đề xuất kinh nghiệm tốt áp dụng trong việc giảng dạy
	2.2. Khó khăn:
	- Tranh ảnh minh họa có sẵn cho môn Tiếng Việt còn hạn chế 
- Nhìn chung đa số phụ huynh trong lớp là nông dân lo làm kinh tế chưa quan tâm đúng mức đến việc học tập của con em mình.
- Bước vào lớp Một các em còn bỡ ngỡ, chưa làm quen được với việc học ở Tiểu học. Một số em còn nhút nhát, rụt rè chưa mạnh dạn trong giao tiếp. Một số em còn nói gọng, phát âm chưa chuẩn. Phát âm sai .Vốn từ của các em còn quá ít ỏi.
	Thực tế cho thấy lớp 1/5 tôi giảng dạy qua theo dõi đầu năm tôi tổng hợp kết quả như sau:
TS
Nữ
Đọc đúng âm
Đọc sai âm đầu 
Đọc sai vần
Nói ngọng
19
8
SL
TL
SL
TL
SL
TL
SL
TL
4
21%
7
36%
6
31%
2
10,5%
3. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN:
Xuất phát từ khó khăn trên mà tôi đã có những giải pháp sau để tháo gỡ khó khăn đó làm cho công tác giảng dạy được dễ dàng hơn.
	3.1. Biệp pháp tác động giáo dục
	- Từ thực trạng trên tôi đã tiến hành họp phụ huynh học sinh đầu năm học: Đề nghị và yêu cầu thống nhất trang bị đầy đủ sách vở, đồ dùng cần thiết phục vụ cho môn học, đưa ra các quy định học ở lớp, ở nhà.
	- yêu cầu, đề nghị phụ huynh nhắc nhở uốn nắn kịp thời việc học và làm bài ở nhà của học sinh, tham mưu với nhà trường để giáo viên có đủ đồ dùng tranh ảnh và tài liệu tham khảo phục vụ bài dạy. Đồng thời mượn đồ dùng học tập, sách giáo khoa cho học sinh có hoàn cảnh khó khăn. ... t ra gần trong chân lưỡi.
	+ Vần /at/: môi mở hơi rộng, đưa lưỡi chạm vào lợi trên, hơi ra trên mặt lưỡi. Học sinh sai lẫn dấu thanh (thanh nặng, thanh sắc, thanh huyền, thanh hỏi, thanh ngã).
	+ Tiếng có thanh nặng: phát âm thấp giọng và nặng, dứt khoát (không kéo dài). Khi phát âm có thể làm động tác gật đầu.
	+ Những tiếng có thanh sắc: đọc nhẹ nhàng hơn tiếng có thanh ngã, hơi ngắn, đọc nhanh, không kéo dài. Bằng cách hướng dẫn (như một vài ví dụ nêu trên) học sinh có thể dễ dàng phát âm và đạt hiệu quả cao.
	+ Những tiếng có thanh ngã đọc hơi kéo dài, luyến giọng, lên cao giọng.
	+ Tiếng có thanh hỏi đọc dứt khoát, rõ ràng, không kéo dài, có thể kèm theo động tác ngửa cổ hướng mắt lên trên.
	+ Đưa tiếng vào từ cụ thể để học sinh phân biệt:
	Ví dụ: đổ/đỗ hướng dẫn học sinh phân biệt “đổ rác” với “hạt đỗ”; ngả/ngã hướng dẫn học sinh đọc để phân biệt “ngả ba / ba ngã”. Hướng dẫn phân biệt vần “an và ang”.
	+ Vần /an/: khi phát âm đầu lưỡi chạm vào chân răng.
	+ Vần /ang/: khi phát âm đầu lưỡi hơi thụt vào trong.
	Ví dụ: bàn /bàng; phân biệt “cái bàn” với “quả bàng”; làn/làng – phân biệt “cái làn” với “làng quê”. Không những dùng lời nói để hướng dẫn học sinh rèn kĩ năng đọc, giáo viên còn sử dụng những kí hiệu (động tác tay, vẽ kí hiệu ở phía trên góc trái của bảng lớp, ). Khi giáo viên đưa ra kí hiệu học sinh thực hiện, như vậy tạo cho học sinh kĩ năng quan sát, tập trung trong giờ học thành thói quen thường xuyên.
	Ví dụ:
	+ Yêu cầu học sinh đọc theo bốn mức độ (to, nhỏ, nhẩm, thầm) giáo viên không dùng lời nói chỉ gắn nam châm vào kí hiệu để tất cả học sinh thực hiện. (Giáo viên vẽ kí hiệu các ô vuông thể hiện các mức độ):
	To nhỏ nhẩm thầm
	+ Yêu cầu đọc đồng thanh (Giáo viên thực hiện động tác đưa hai tay từ trong ngực ra phía trước).
	+ Yêu cầu đọc nhóm đôi (giáo viên chỉ dùng nam châm gắn vào kí hiệu N ở bảng lớp).
 3.4. Rèn luyện tính kiên trì cho học sinh. 
	Rèn tính kiên trì cho học sinh là nhiệm vụ quan trọng. Bản thân người giáo viên cũng 
phải rất kiên trì để hình thành tính cách ấy cho học sinh. Khi có được lòng kiên trì, học sinh sẽ vượt qua những khó khăn để đạt tới cái đích cao nhất. Trong dạy phát âm cho học sinh, khi các em phát âm chưa đúng, phải điều chỉnh nhiều lần mà vẫn chưa đạt yêu cầu, các em sẽ dễ chán nản, không muốn luyện tập. Khi ấy, giáo viên cần kiên trì hướng dẫn, làm mẫu, yêu cầu học sinh phát âm nhiều lần, thường xuyên động viên khích lệ học sinh bằng những lời khen. 
	Ví dụ: “Em đã đọc được rồi đấy, em cố gắng lên nhé”; “Em đã đọc tốt hơn rồi, em cần cố gắng thêm tí nữa”; Được động viên như vậy, học sinh sẽ không nản lòng vì nghĩ rằng mình sẽ làm được, sắp làm được, bạn làm được thì mình cũng sẽ làm đượcTừ đó học sinh sẽ quyết tâm hơn. 
	3.5. Quan tâm rèn luyện cho học sinh ở mọi nơi, mọi lúc
	Để giúp học sinh phát âm chuẩn, giáo viên không chỉ hướng dẫn, sửa sai cho các em trong giờ học môn Tiếng Việt mà tôi luôn theo dõi, uốn nắn cho các em cả trong các tiết học khác, trong hoạt động tập thể Bởi vì những lúc vui chơi là lúc các em sử dụng lời nói một cách tự nhiên nhất, những lúc này các em thường nói tiếng địa phương, nói lóng,...Vì thế bản thân tôi thường xuyên quan sát, để ý đến các em, phát hiện những lỗi phát âm, cách dùng từ chưa đúng, để kịp thời sửa chữa, đồng thời tạo cho học sinh thói quen phát âm chuẩn, sử dụng tiếng phổ thông khi nói dù ở bất cứ nơi đâu.
	3.6. Tuyên dương, khuyến khích học sinh
	Trong tiết dạy tôi thường chú ý đến học sinh ít nói, thụ động, học sinh đọc chậm để gọi các em thường xuyên đọc bài. Đối với học sinh đọc tốt tôi thường khích lệ, khen ngợi để các em hứng thú, vui vẻ, tạo được không khí thoải mái. Còn đối với học sinh đọc còn chậm, hay quên tôi nhẹ nhàng động viên các em hãy luôn cố gắng chắc chắn các em sẽ làm được là động lực cho các em tiếp tục rèn luyện, sửa chữa các lỗi mà các em mắc phải. Khi các em này có tiến bộ dù một chút tôi luôn khen ngợi, tuyên dương để các em có động lực và cố gắng hơn (VD: “Em đã phát âm đúng, cố lên em nhé”, “Em đã có tiến bộ hơn rồi, thầy khen em”...),. Không chỉ khen những em đã biết sửa lỗi mà tôi còn khen cả những em đã giúp bạn phát âm đúng, để từ đó các em có động lực giúp bạn hơn, hứng thú với công việc đó hơn. 
	3.7. Kết hợp với phụ huynh rèn luyện phát âm cho học sinh
 	Việc phối hợp giữa gia đình và nhà trường đều tạo môi trường phát âm chuẩn mực giúp các em ngấm dần một cách tự nhiên khi đọc phát âm đúng. Một số trường hợp, học sinh phát âm sai không phải do hệ thống phát âm của các em chưa hoàn chỉnh, cũng không phải do các em chưa hiểu cách phát âm mà là do thói quen sử dụng từ ngữ địa phương (rượu - riệu; nếu - niếu; hươu - hiêu; hưu – hiu; hữu –hĩu; nêu – niêu,...). Đối với những trường hợp trên, trong mỗi bài dạy, khi có từ ngữ hoặc chủ đề liên quan, giáo viên cần quan tâm tới các em thường nói sai, giải thích cho các em hiểu đúng nghĩa của từ cũng như cách dùng từ đúng, từ đó giúp các em tránh phát âm sai theo cách nói của địa phương. Với một số em cá biệt về phát âm, bản thân tôi đã gặp trực tiếp phụ huynh trao đổi và động viên để phụ huynh hướng dẫn thêm con em lúc ở nhà. Ngoài ra tôi còn trao đổi phụ huynh thường xuyên chú ý tới lời nói, cách phát âm của mọi người trong gia đình, giải thích cho phụ huynh hiểu chính lời nói của người thân trong gia đình là môi 
trường giáo dục cho các em khi ở nhà
4. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC:
Đọc giúp các em chiếm lĩnh được ngôn ngữ để dùng trong giao tiếp và học tập. Đọc là một công cụ để học các môn học khác. Đọc tạo ra hứng thú và động cơ học tập tốt. Tạo điều kiện để học sinh có khả năng tự học và tinh thần học tập cả đời. Chính vì vậy, để rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 1 đạt hiệu quả. Giáo viên cần đưa ra những biện pháp nhằm hình thành và phát triển một cách có hệ thống về năng lực đọc cho học sinh từ kĩ năng đọc đúng âm, vần, tiếng, từ, câu, đoạn, bài; nâng cao dần kĩ năng đọc hiểu từ đó giúp các em đọc đúng, đọc hay, đọc diễn cảm. 
Vì thế để môn tiếng việt của học sinh lớp 1 có kết quả cao. Giáo viên chủ nhiệm lớp phải nắm vững đặc điểm tâm sinh lý của học sinh, phải yêu học sinh như chính con mình, biết rõ mặt mạnh, mặt yếu của học sinh để bồi dưỡng, luyện tập. Trong từng tiết dạy giáo viên phải xác định khối lượng kiến thức cần truyền thụ cho học sinh thông qua mục đích, yêu cầu của bài dạy. Khi giảng dạy cần lựa chọn nhiều phương pháp phù hợp, vận dụng việc đổi mới phương pháp trong giảng dạy đó là lấy học sinh làm trung tâm, phải khơi gợi cho học sinh tính chủ động, ham thích học, đọc bài. Vì vậy là giáo viên chúng ta phải biết được đặc điểm tình hình của từng đối tượng phát huy những mặt tích cực của học sinh. Tổ chức tiết dạy sao cho các em luôn luôn cảm thấy nhẹ nhàng và thích thú. Giáo viên phải gần gũi yêu thương đọng viên kịp thời để học sinh có tinh thần vui vẻ, hồn nhiên để học tập, nhận thức rõ điều này tôi đã thực hiện 1 số biện pháp rèn cho học sinh lớp 1 để cho học sinh học tốt.
	 Kết quả cuối học kì I so với đầu năm đã có tiến bộ rõ rệt, nhiều em tự giác học tập. đó chính là nguồn động viên tinh thần cho tôi trong công tác giảng dạy.
TS
Nữ
Đọc đúng âm
Đọc sai âm đầu 
Đọc sai vần
Nói ngọng
Đầu năm
19
8
SL
TL
SL
TL
SL
TL
SL
TL
4
21 %
7
36 %
6
31 %
2
10,5 %
Học kì I
19
8
11
57,8 %
6
31,5 %
1
0,52 %
1
0,52 %
5. KHẢ NĂNG NHÂN RỘNG:
	Sáng kiến kinh nghiệm của tôi đã được thực nghiệm trong quá trình giảng dạy và đạt được kết quả khả quan. Sáng kiến kinh nghiệm có thể áp dụng rộng rãi trong công tác chủ nhiệm lớp 1 ở bậc Tiểu học.
TT
Tên đồng nghiệp đã vận dụng sáng kiến kinh nghiệm của tôi
Nhận định đánh giá
Kí tên xác nhận
1
Nguyễn Ánh Thu
..
..
2
Nguyễn Thành Tâm
C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ: 
1. Kết luận:
Với học sinh lớp 1 cần tập cho các em thói quen tốt: đọc đúng, nhìn kỹ, cố gắng, nhẫn nại, chịu khó vv để tập cho các em nề nếp tốt trong học tập ở hôm nay và mai sau. Muốn đạt được mục đích này người giáo viên lập kế hoạch cho mình ngay từ đấu, quyết tâm giữ vững tinh thần tránh nhiệm của mình với học sinh. Hãy cùng học, cùng đọc với các bạn nhỏ này ở mọi lúc mọi nơi, mọi môn học, không nên hời hợt, cho qua khi các em đọc sai lỗi. 
Khi đọc mẫu giáo viên nên phát âm chuẩn xác để học sinh bắt chước và vững vàng trong cách đọc tránh đọc sai để ảnh hưởng đến học sinh. Trong từng tiết dạy giáo viên phải xác định khối lượng kiến thức cần truyền thụ cho học sinh thông qua mục đích, yêu cầu của bài dạy. Sau khi áp dụng những biện pháp trên vào trong thực tiễn lớp, tôi thấy học sinh lớp tôi đã nhớ rõ được các âm, vần đã học. Các em ghép tiếng và đọc tiếng rất nhanh. Bây giờ các em đã có thể đọc lưu loát một đoạn văn hay một khổ thơ. Nhiều em còn đọc rất diễn cảm, ngắt nghỉ hơi tốt.
Để đảm bảo mục tiêu bài học trong quá trình dạy học người giáo viên cần phải dạy cho học sinh các kĩ năng nghe, nói, quan sát, phân tích, đặt vấn đề và lập kế hoạch giải quyết vấn đề, rèn cho học sinh tính kiên nhẫn, lòng say mê học tập, tạo hứng thú cho học sinh.
2. Đề xuất: 
- Đối với nhà trường: Tổ chức sinh hoạt chuyên môn, nghiên cứu sâu thiết kế, ... Phải hết sức linh hoạt, sáng tạo trong dạy học.
- Đối với giáo viên: chúng ta cần phải thực sự quan tâm yêu thương, gần gũi và tạo không khí vui tươi, phấn khởi trong các buổi học để giúp các em ham học và yêu thích môn học.
- Về phía học sinh: Có đầy đủ đồ dùng học tập, có ý thức tự giác trong học tập.
Trong bảng sáng kiến này do kinh nghiệm và trình độ của tôi còn nhiều hạn chế nên không thể không thiếu sót trong quá trình thực hiện. rất mong sự đóng góp của đồng nghiệp, ban giám hiệu nhà trường và các cấp lãnh đạo để sáng kiến của tôi được hoàn thiện hơn.
 HiếuThành, ngày 7 tháng 1 năm 2020
	 Người viết 	 
 Võ Văn Minh Thắng
Kinh nghiệm này đã được thông qua HĐKH
Của trường và thực hiện có kết quả tốt.
Xếp loại:........................
Hiếu thành, ngày tháng năm 201
Hiệu trưởng
Nguyễn Văn Tư
Hội đồng khoa học huyện xác nhận sáng kiến kinh nghiệm
Đạt điểm:..........
Ngày.......tháng......năm.........
Trưởng phòng

File đính kèm:

  • docbao_cao_bien_phap_mot_so_giai_phap_ren_ki_nang_doc_cho_hoc_s.doc