Sáng kiến kinh nghiệm Mười hai biện pháp giáo dục học sinh cá biệt ở Lớp 1B trường Tiểu học Vạn Thọ 1

Cơ sở lý luận vấn đề

Bất cứ một ai khi đã chọn ngành nghề cho mình thì đều xác định cái đích mình cần đạt đến. Cái đích đó tưởng như rất gần, rất dễ thực hiện, nhưng trong thực tiễn không phải như vậy, mà nhiều khi để đạt được phải đổ nhiều mồ hôi, nước mắt và thậm chí cả tính mạng để đạt được nó.

 Cũng như mọi ngành nghề khác, nghề dạy học (hay thường gọi là ngành giáo) nhất là giáo viên dạy bậc tiểu học cũng không tránh khỏi những vấn đề nan giải ấy. Khi đã chọn cho mình cái nghề này, nó sẽ gắn bó với mình suốt cả cuộc đời, người giáo viên sẽ sẵn sàng đón nhận bất cứ đối tượng học sinh nào để dạy dỗ cho các em trở thành người có đức, có tài. Có một đối tượng học sinh mà hầu hết ở cấp học nào cũng có, luôn mang lại nhiều bận tâm, khiến cho người giáo viên phải trăn trở, suy nghĩ để tìm ra biện pháp giáo dục, để lại nhiều ấn tượng sắc nhất mỗi khi gặp phải đó là đối tượng học sinh cá biệt.

 

doc 25 trang Thảo Phương 15/05/2023 5640
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Mười hai biện pháp giáo dục học sinh cá biệt ở Lớp 1B trường Tiểu học Vạn Thọ 1", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Mười hai biện pháp giáo dục học sinh cá biệt ở Lớp 1B trường Tiểu học Vạn Thọ 1

Sáng kiến kinh nghiệm Mười hai biện pháp giáo dục học sinh cá biệt ở Lớp 1B trường Tiểu học Vạn Thọ 1
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN VẠN NINH
TRƯỜNG TIỂU HỌC VẠN THỌ 1
SÁNG KIẾN
MƯỜI HAI BIỆN PHÁP GIÁO DỤC HỌC SINH CÁ BIỆT Ở LỚP 1B TRƯỜNG TIỂU HỌC VẠN THỌ 1
Tác giả: Vũ Thị Khánh Linh
NĂM HỌC : 2018 – 2019
 TRƯỜNG TIỂU HỌC VẠN THỌ 1 
 HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN
NHẬN XÉT- ĐÁNH GIÁ – XẾP LOẠI
Nhận xét : 
..
.. 
.. 
.. 
.. 
.. 
.. 
.. 
.. 
.. 
.. 
.. 
.. 
2/ Đánh giá - xếp loại : 
 Vạn Thọ, ngày  tháng  năm 2018
 CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN 
 MỤC LỤC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục và đào tạo là một trong những lĩnh vực được quan tâm hàng đầu trong sự phát triển của mỗi quốc gia. Việc đầu tư cho giáo dục và đào tạo được coi là quốc sách hàng đầu của đất nước ta trong việc tạo nguồn nhân lực cho sự phát triển mang tính bền vững của quốc gia.
Tại điều 2 chương I, Luật Giáo dục nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2005 cũng đã xác định: “Mục tiêu giáo dục là đào tạo người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Giáo dục đạo đức là một trong những mặt giáo dục quan trọng trong mục tiêu giáo dục của nhà trường ở nước ta hiện nay. Nó có vai trò quan trọng trong việc hình thành nhân cách của con người - nguồn nhân lực phục vụ sự phát triển của đất nước. Đối với dân tộc Việt Nam: Đạo đức là vốn quý của con người, cái “đức” là nền tảng, là căn bản của con người. 
Vì vậy, trong bất kì xã hội nào, nghề giáo cũng luôn được đề cao và quý trọng. Đặc biệt là trong chế độ xã hội chủ nghĩa, nghề giáo lại càng được tôn vinh và được xem là một nghề cao quý nhất trong các nghề cao quý. Cái nghề “truyền chữ”, “trồng người” này lại không đơn giản, nhất là ở lứa tuổi của các em học sinh mới chập chững làm quen với mái trường, thầy cô, bạn bè đó là học sinh bậc tiểu học. Đây là lứa tuổi rất nhạy cảm và rất quan trọng để các em định hướng trưởng thành sau này. Chính vì thế Bác Hồ đã nói “...Một năm bắt đầu từ mùa xuân, một đời bắt đầu từ tuổi trẻ ”. Vì vậy nếu không giáo dục, không uốn nắn các em ngay từ đầu thì rất khó để cho các em nắm vững kiến thức, không làm chủ được bản thân và cũng sẽ khó trở thành người có tài, có đức phục vụ cho đất nước sau này.
Đối tượng học sinh cấp tiểu học ở những độ tuổi khác nhau cũng có nhiều dạng khác nhau: Có nhiều em rất ngoan, hiền và biết vâng lời thầy cô giáo. Nhưng bên cạnh đó cũng có một số em thì ngang bướng, ngỗ nghịch, nói tục chửi thề khá phổ biến, tóc được nhuộm đủ màu  Trong đối tượng học sinh này có một dạng gọi là “học sinh cá biệt”. Đó là những học sinh luôn tạo ra nhiều sự phiền hà và bận rộn hơn cho giáo viên cũng như gây nhiều phiền toái đến các bạn, ảnh hưởng không tốt đến lớp. Để đưa các em học sinh cá biệt này vào khuôn khổ không phải dễ và không phải giáo viên nào cũng thành công. Vì vậy, để góp phần vào công tác giáo dục đạo đức cho học sinh cá biệt trong giai đoạn hiện nay, tôi nhận thấy việc nắm rõ thực trạng và đề ra biện pháp về công tác giáo dục đạo đức cho học sinh cá biệt là một nhiệm vụ hết sức quan trọng của người giáo viên. 
Chính vì lẽ đó, tôi đã chọn đề tài “Mười hai biện pháp giáo dục học sinh cá biệt ở lớp 1B trường Tiểu học Vạn Thọ 1” này để làm sáng kiến kinh nghiệm cho bản thân cũng như làm tư liệu tham khảo cho các đồng nghiệp.
2. Lịch sử của đề tài
	Biện pháp giáo dục học sinh cá biệt trong công tác chủ nhiệm, cũng đã được nhiều anh chị em khác trong ngành tìm hiểu, nghiên cứu và bản thân cũng là một giáo viên chủ nhiệm lớp, nên từ đó cũng đúc kết được một số kinh nghiệm về công tác chủ nhiệm lớp để gây hứng thú trong việc học cho các em và đưa chất lượng của lớp ngày càng cao, đồng thời tình cảm thầy - trò, bạn bè ngày càng gắn bó và thân thiện hơn.
* Việc nêu ra biện pháp để nâng cao chất lượng công tác chủ nhiệm lớp cũng đã được một số sáng kiến nhắc đến như :
Sáng kiến: Biện pháp giáo dục học sinh cá biệt về hạnh kiểm. (Sáng kiến của Nguyễn Xuân Lâm trường Tiểu học Bù Nho, Xã Phước Long, Tỉnh Bình Phước).
Sáng kiến: Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả công tác chủ nhiệm lớp Một ở trường Tiểu học Cẩm Phong, Huyện Cẩm Thủy. (Sáng kiến của cô Trịnh Thị Thu Hương trường Tiểu học Cẩm Phong Tỉnh, Huyện Cẩm Thủy, Tỉnh Thanh Hóa).
Sáng kiến: Một số biện pháp làm tốt công tác chủ nhiệm lớp. (Sáng kiến của thầy Nguyễn Chí Nam trường Tiểu học Võ Thị Sáu, Xã Quảng Sơn, Tỉnh Đắk Nông).
3. Mục đích nghiên cứu đề tài
Với đề tài sáng kiến này, mục đích nghiên cứu của bản thân tôi là:
- Tìm ra những nguyên nhân mà công tác chủ nhiệm chưa đạt hiệu quả. Qua đó đề ra một số biện pháp hữu hiệu để giáo viên làm tốt công tác chủ nhiệm nhằm khắc phục tình trạng nề nếp lớp, hạn chế học sinh bỏ học một cách tốt hơn.
- Giúp học sinh lớp một có những nề nếp và thói quen tốt trong học tập, từ đó làm nâng cao chất lượng học tập và rèn luyện năng lực, phẩm chất của học sinh.
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nắm được thực trạng của một số học sinh cá biệt lớp 1B trường Tiểu học Vạn Thọ 1, từ đó có phương pháp giáo dục, rèn luyện để tạo cơ hội cho các học sinh ấy tiến bộ hơn, học tập tốt hơn và trở thành học sinh có ý thức, có phẩm chất đạo đức tốt.
4.2. Các phương pháp nghiên cứu
	- Phương pháp đọc sách và tài liệu tham khảo: Tôi đã tìm hiểu một số tài liệu viết sự hình thành nhân cách của trẻ, tâm sinh lí học sinh lứa tuổi tiểu học,
	- Phương pháp quan sát: Theo dõi quá trình học tập và hoạt động của các em học sinh cá biệt trong lớp. (Trước, trong và sau khi áp dụng các biện pháp giáo dục)
	- Phương pháp đàm thoại: Tiến hành trò chuyện trực tiếp với các em nhằm tìm hiểu nguyên nhân và gần gũi với các em hơn. Trao đổi trực tiếp với gia đình các em để cùng tìm biện pháp giúp đỡ các em.
	- Phương pháp điều tra thực tế: Tìm hiểu hoàn cảnh sống gia đình các em để có biện pháp phù hợp.
	- Phương pháp đối chiếu, so sánh: Đối chiếu kết quả trước và sau khi thực hiện đề tài. 
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Phân tích và tổng hợp nguyên nhân cũng như kết quả đạt được.
5. Giới hạn (phạm vi) nghiên cứu
- Nội dung nghiên cứu: “Mười hai biện pháp giáo dục học sinh cá biệt ở lớp 1B trường Tiểu học Vạn Thọ 1”.
- Thời gian: Trong năm học 2017 – 2018.	
- Đối tượng áp dụng: Học sinh lớp 1B, Trường Tiểu học Vạn Thọ 1.
6. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu
Qua kết quả nghiên cứu cho thấy:
- Học sinh đi học chuyên cần, hăng say học tập hơn.
- Biết lễ phép với người lớn, ông bà, cha mẹ và thầy cô giáo. Biết hòa đồng với bạn bè,
- Kết quả học tập nâng cao rõ rệt theo từng tháng, từng học kì.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lý luận vấn đề
Bất cứ một ai khi đã chọn ngành nghề cho mình thì đều xác định cái đích mình cần đạt đến. Cái đích đó tưởng như rất gần, rất dễ thực hiện, nhưng trong thực tiễn không phải như vậy, mà nhiều khi để đạt được phải đổ nhiều mồ hôi, nước mắt và thậm chí cả tính mạng để đạt được nó.
 	Cũng như mọi ngành nghề khác, nghề dạy học (hay thường gọi là ngành giáo) nhất là giáo viên dạy bậc tiểu học cũng không tránh khỏi những vấn đề nan giải ấy. Khi đã chọn cho mình cái nghề này, nó sẽ gắn bó với mình suốt cả cuộc đời, người giáo viên sẽ sẵn sàng đón nhận bất cứ đối tượng học sinh nào để dạy dỗ cho các em trở thành người có đức, có tài. Có một đối tượng học sinh mà hầu hết ở cấp học nào cũng có, luôn mang lại nhiều bận tâm, khiến cho người giáo viên phải trăn trở, suy nghĩ để tìm ra biện pháp giáo dục, để lại nhiều ấn tượng sắc nhất mỗi khi gặp phải đó là đối tượng học sinh cá biệt. 
1.1. Thế nào là học sinh cá biệt?
Học sinh cá biệt là những học sinh chưa ngoan, có những hành vi không mong đợi được lặp lại thường xuyên và trở thành hệ thống, thể hiện bởi thái độ, hành vi không phù hợp với giá trị, nội quy, truyền thống của tập thể, không thực hiện tròn bổn phận và trách nhiệm của người học sinh, hoặc thiếu kỹ năng sống trong quan hệ ứng xử với mọi người, mặc dù đã được giáo viên, gia đình quan tâm chỉ dẫn, giáo dục.
Học sinh cá biệt thường có những biểu hiện phổ biến sau:
- Học sinh có những thay đổi khác lạ trong thái độ, cách cư xử: trở nên lãnh đạm, không chan hòa, không muốn hòa đồng, cáu kỉnh, xúc phạm người khác thậm chí gây gổ.
- Không quan tâm, hứng thú với trường học và việc học, học sa sút, thậm chí là bỏ học.
- Thiếu tự tin vào bản thân. Không tin cậy người khác.
- Thường xuyên vi phạm nội quy của lớp, trường.
- Cố thu hút sự chú ý của người khác bằng những hành vi phá phách, vô lễ, ăn cắp, nói dối,
- Hay đánh đập bạn, hay ồn trong lớp học, bỏ học, trốn học để chơi game.
- Có những hành vi chống đối vô lối với giáo viên.
- Có những hành động kì quặc, khiến cho lớp học luôn trong trạng thái bất ổn.
- Có thái độ xem thường bạn bè, thầy cô,
- Thường xuyên nói tục,
- Thường xuyên không tham gia vào các hoạt động học tập của lớp.
1.2. Một số đặc điểm về tâm sinh lí lứa tuổi học sinh tiểu học
Học sinh ở lứa tuổi tiểu học các em rất nghịch, hiếu động, chưa làm chủ được bản thân, chưa nhận thức được điều gì là đúng và điều gì là sai, hay bắt chước và chịu tác động của mọi việc xảy ra xung quanh mình. Chính vì thế, nếu môi trường tác động tốt thì các em sẽ có những hành vi và đạo đức tốt, còn ngược lại thì sẽ rất tồi tệ, có thể các em sẽ hư hỏng, dối trá, suy giảm đạo đức.
Tuy nhiên ở lứa tuổi này, các em cũng rất thích được tuyên dương, khen ngợi. Vì vậy chúng ta cần những giải pháp thích hợp để giáo dục và định hướng đúng đắn cho các em học sinh trong các hoạt động giáo dục, học tập và vui chơi lành mạnh, phù hợp với lứa tuổi của các em. Chúng ta không thể áp dụng cách thức giáo dục cho lớp mẫu giáo vào bậc tiểu học, cũng không thể áp dụng cách thức giáo dục cho bậc trung học vào học sinh tiểu học. Có như vậy, chúng ta mới giáo dục học sinh ở bậc tiểu học phát triển một cách đúng nhất về nhân cách cũng như nhận thức của lứa tuổi mình, đặc biệt là các học sinh dạng cá biệt. 
Với học sinh dạng c ... h thức liên lạc bằng điện thoại: Giáo viên chủ nhiệm cho phụ huynh đăng ký số điện thoại và thông báo số điện thoại của mình cho phụ huynh học sinh biết ngay từ buổi họp phụ huynh học sinh đầu năm để chủ động liên lạc trực tiếp với phụ huynh khi cần thiết và ngược lại.
Đặc biệt đối với học sinh hay nghỉ học, đi học trễ, nếu nghỉ học không có lí do, hoặc viết giấy phép nhưng không có chữ ký phụ huynh, có chữ ký phụ huynh nhưng không đúng ..., giáo viên chủ nhiệm điện trực tiếp cho gia đình học sinh ngay trong buổi học hôm đó để xác định thông tin. 	
4. Hiệu quả của đề tài
4.1. Sự thay đổi trong nhận thức của học sinh.
Tính từ đầu năm học cho đến cuối học kỳ II năm học 2017 – 2018, việc áp dụng một số biện pháp nêu trên đã đem lại một số kết quả như sau:
Các em đã biết vâng lời thầy cô giáo và người lớn, không còn nói tục, chửi thề tại trường học, không còn tình trạng đánh nhau. Một số em là học sinh có hành vi đạo đức chưa tốt bây giờ trở thành những học sinh phụ trách trật tự của lớp và có hành vi đạo đức tốt, được các em học sinh khác yêu quý như em Cao Thị Bích Ngọc. Bên cạnh đó em Trần Anh Thư và em Nguyễn Hoàng Mai Phương đã tiến bộ rất nhiều trong học tập, các em tham gia phát biểu xây dựng bài, biết giúp đỡ bạn trong lớp, khi giáo viên giao việc thì cố gắng hoàn thành, biết vâng lời thầy cô giáo và tham gia đầy đủ các hoạt động của lớp và của trường tổ chức; đặc biệt vấn đề ăn mặc, đầu tóc và vệ sinh cá nhân của em Nguyễn Tuấn Kiệt đã được cải thiện đáng kể. Em Võ Thị Kiều Ngoan đã tiến bộ hơn trong giao tiếp, mạnh dạn trò chuyện, biết cách kết hợp vui chơi cùng bạn và khả năng đọc viết cũng tiến bộ hơn trước.
4.2. Kết quả về các mặt trước và sau khi áp dụng đề tài
Trong suốt thời gian thực hiện đề tài này, tôi nhận thấy hài lòng vì đa số các học sinh cá biệt đã nhận thức đúng đắn về hành vi học tập và rèn luyện đạo đức của mình. Các em có hành vi đạo đức chưa tốt đã ngoan lên hơn nhiều, các em chưa hoàn thành việc học tập giờ cũng đã cải thiện, từ viết sai chính tả, đọc không thông, làm toán không được, bây giờ các em đã tự thực hiện được các vấn đề cơ bản của bộ môn Tiếng Việt và môn Toán. Tất cả các nội dung cần thực hiện hầu như đều có tiến bộ, tuy chưa đạt 100% nhưng bước đầu các em đã biết hòa đồng cùng bạn bè, biết đoàn kết và biết bảo vệ của chung. 
* Số liệu cụ thể như sau: 
Về môn học và hoạt động giáo dục:
Giữa HKI
Cuối HKII
Hoàn thành tốt
Hoàn thành
Chưa hoàn thành
Hoàn thành tốt
Hoàn thành
Chưa hoàn thành
26,1%
65,2%
8,7%
60,9%
39,1%
0%
Về rèn luyện năng lực, phẩm chất:
Giữa HKI
Cuối HKII
Tốt
Đạt
Cần cố gắng
Tốt
Đạt
Cần cố gắng
65,2%
26,1%
8,7%
91,3%
8,7%
0%
III. KẾT LUẬN
1. Đúc kết lại những nội dung chính đã trình bày
Bậc học tiểu học là bậc học nền tảng cho việc hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thẩm mỹ và các kĩ năng cơ bản của học sinh. 
Để hoạt động học tập diễn ra tốt đẹp, thì không chỉ có bản thân học sinh nỗ lực là đủ mà quan trọng nhất là vai trò của người giáo viên chủ nhiệm. Việc từng bước rèn luyện nề nếp học tập, ý thức kỷ luật, thái độ giao tiếp với thầy cô, bạn bè, trong gia đình và ngoài xã hội... rất nhiều điều cần có sự tận tâm của người giáo viên chủ nhiệm lớp. Vì vậy, người giáo viên chủ nhiệm lớp ở Tiểu học có một vị trí đặc biệt quan trọng. Giáo viên chủ nhiệm là người quản lý, giáo dục toàn diện học sinh một lớp. Để làm tốt công việc đó người giáo viên chủ nhiệm phải nắm bắt được đặc điểm tình hình lớp cụ thể, sâu sắc qua việc tìm hiểu về học sinh lớp mình qua nhiều kênh thông tin. Trong quá trình giáo dục, người giáo viên chủ nhiệm cần phối kết hợp, liên hệ thường xuyên với phụ huynh học sinh, với giáo viên bộ môn, đi sâu đi sát lớp chủ nhiệm. Với những học sinh có ý thức học tập, tu dưỡng thì công việc của người giáo viên chủ nhiệm sẽ nhẹ nhàng, còn đối với những học sinh chưa ngoan, những học sinh cá biệt đòi hỏi người giáo viên phải mất nhiều thời gian công sức hơn cho công tác chủ nhiệm. Vì thế, chỉ có những giáo viên thực sự tâm huyết với nghề, thực sự thương yêu học sinh của mình thì mới có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ.
2. Đề ra biện pháp triển khai, áp dụng đề tài vào thực tiễn
Việc thực hiện đề tài giúp cho đa số các học sinh cá biệt có nhận thức đúng đắn về hành vi học tập và rèn luyện đạo đức của mình từ đó các em sẽ có ý thức kỷ luật tốt hơn, đạt kết quả cao hơn trong học tập.
Tôi thường xuyên quan tâm động viên các em hàng ngày, hàng giờ, hỏi thăm tình hình các em ở nhà thường làm những công việc gì để giúp đỡ bố mẹ, bố mẹ có thường xuyên quan tâm đến các em không, hoàn cảnh gia đình của em như thế nào để từ đó giáo viên nắm được và động viên các em thêm.
Thường xuyên quan tâm theo dõi các em học, chỗ nào chưa hiểu, chưa nắm được còn lúng túng, giáo viên nhẹ nhàng giúp đỡ ngay để từ đó các em mới có hứng thú học hơn và tạo sự gần gũi giữa giáo viên và học sinh, dần dần các em sẽ tiến bộ và không còn mặc cảm với bạn bè.
Thường xuyên trao đổi với phụ huynh học sinh qua điện thoại hoặc trực tiếp xuống nhà để tiếp cận với gia đình các em để đưa ra các biện pháp cùng giáo dục các em tiến bộ.
Tham mưu với ban giám hiệu, Đội Thiếu Niên, Hội cha mẹ học sinh, để hỗ trợ thêm một số đồ dùng học tập cho một số học sinh có hoàn cảnh khó khăn đủ đồ dùng học tập như các bạn khác trong lớp.
Phân công học sinh có năng lực trong nhóm và trong lớp giúp đỡ đầu giờ học hoặc ở mỗi tiết học, chỗ nào chưa hiểu thì bạn giảng lại, hướng dẫn thêm, bày cách đọc, cách viết và cách trình bày bàiLập sổ nhật ký theo dõi các em hằng ngày, cứ từng tháng báo lại cho gia đình nắm được và lấy ý kiến của gia đình để giáo viên thay đổi biện pháp giáo dục khác cho tốt hơn.
 	Phân công cho các em phụ trách một công việc gì đó trong lớp để các em cảm thấy mình cũng được thầy cô và các bạn trong lớp tín nhiệm tương đương với các bạn khác chứ không phải mình là người bị bỏ rơi.
Trao đổi với giáo viên bộ môn, giáo viên trong tổ chuyên môn để đưa ra các biện pháp giáo dục cũng như các phương pháp để nâng cao chất lượng giáo dục.
Với đề tài: “Mười hai biện pháp giáo dục học sinh cá biệt ở lớp 1B trường Tiểu học Vạn Thọ 1” đã mang đến một số kết quả khả quan nhưng chúng ta phải nhận thức rõ rằng việc giáo dục đạo đức cho học sinh không phải “một sớm một chiều” là sẽ có kết quả mà phải “mưa dầm thấm đất”. Tuy nhiên những giải pháp trên đây phần nào cho thấy việc quan tâm đến giáo dục đạo đức cho học sinh ở lớp tôi đang chủ nhiệm đã dần hoàn thiện hơn.
Điều làm cho tôi phấn khởi là tình hình đạo đức và học tập của học sinh ngày càng có sự chuyển biến tốt mặc dù sự chuyển biến đó chưa tiến triển nhanh chóng và chưa được hoàn hảo như mong muốn. Nhưng đó là những kết quả có được từ tâm huyết và lương tâm Nhà giáo với mục đích giáo dục đạo đức cho học sinh ngày càng tiến bộ hơn. Tôi rất hy vọng các biện pháp của tôi sẽ phần nào đóng góp cho việc giáo dục học sinh cá biệt trong nhà trường hiện nay ngày càng tốt và đạt hiệu quả hơn.
	Tôi nghĩ những biện pháp nêu trên có thể áp dụng rộng rãi ở các lớp đó là những yếu tố không thể thiếu được để nâng cao chất lượng dạy học. Tôi mong rằng kinh nghiệm này sẽ được nhân rộng ra các khối lớp ở bậc tiểu học nói chung và lớp 1 nói riêng để tạo cho các em một niềm vui khi đến lớp.
3. Kiến nghị, đề xuất
Để làm tốt công tác chủ nhiệm lớp trong toàn ngành được phát triển tôi xin có một số đề xuất sau:
* Đối với nhà trường: 
+ Nhà trường tạo mọi điều kiện về trang thiết bị, đồ dùng dạy học, các tài liệu tham khảo để giáo viên làm tốt công tác chủ nhiệm hơn nữa.
+ Tổ chức các buổi thảo luận về công tác chủ nhiệm để đồng nghiệp trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau. 
+ Ban giám hiệu nhà trường cần có những can thiệp cần thiết khi giáo viên khó khăn trong việc tiếp cận với gia đình học sinh cá biệt, hoặc tạo điều kiện thuận lợi để giáo viên liên hệ làm việc với các ban ngành (Phụ nữ, Hội nông dân,...) khi cần thiết để giúp đỡ học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.
* Đối với cha mẹ học sinh: 
Cần quan tâm hơn nữa tới việc tự học, tự rèn và thái độ đạo đức của các em ở nhà nhiều hơn nữa. Ngoài ra cần phải kiểm tra sát sao việc tự học, tự rèn ở nhà của các em.
	* Đối với chính quyền địa phương: 
	Luôn luôn tạo mọi điều kiện giúp đỡ về vật chất cho những em học sinh nghèo và những em học sinh có hoàn cảnh khó khăn để các em được đến trường như các bạn khác và tham gia vận động học sinh bỏ học ra lại lớp học cùng giáo viên. 
* Đối với phòng giáo dục: 
Qua sáng kiến kinh nghiệm trên thì rất mong các cấp lãnh đạo tạo điều kiện để phổ biến các kinh nghiệm trên một cách rộng rãi tới các lớp, các trường ... 
4. Hướng phát triển của đề tài 
Qua thực tế, bản thân tôi thấy kết quả rất khả quan. Vì thế tôi thiết nghĩ rằng các bạn đồng nghiệp có thể tham khảo và vận dụng.
Trên đây là những chia sẻ của tôi trong đề tài. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của lãnh đạo nhà trường, các thầy cô, anh chị đồng nghiệp trong và ngoài nhà trường để đề tài được hoàn thiện hơn.
 Vạn Thọ, ngày 4 tháng 11 năm 2018 
 HIỆU TRƯỞNG Người viết
 Vũ Thị Khánh Linh
TÀI LIỆU THAM KHẢO
* Tài liệu sách
GS.TS Bùi Văn Huệ (2012 ), Giáo trình về Tâm lí học Tiểu học, Nhà xuất bản Giáo Dục Hà Nội.
Hoàng Tố Nga (2018) , Kĩ năng công tác giáo viên chủ nhiệm, Nhà xuất bản lao động.
* Tài liệu tạp chí
Tạp chí giáo dục Tiểu học (Tập 43), Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, xuất bản năm 2010.
* Tài liệu sáng kiến kinh nghiệm 
Thầy Nguyễn Chí Nam, Một số biện pháp làm tốt công tác chủ nhiệm lớp, trường Tiểu học Võ Thị Sáu, Xã Quảng Sơn, Tỉnh Đắk Nông.
Thầy Nguyễn Xuân Lâm, Biện pháp giáo dục học sinh các biệt về hạnh kiểm, trường Tiểu học Bù Nho, Xã Phước Long, Tỉnh Bình Phước.
Cô Trịnh Thị Thu Hương, Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả công tác chủ nhiệm lớp Một ở trường Tiểu học Cẩm Phong, Huyện Cẩm Thủy, trường Tiểu học Cẩm Phong Tỉnh, Huyện Cẩm Thủy, Tỉnh Thanh Hóa.
* Tài liệu từ các trang web: violet.vn; giaoandientu.com.vn; giaovien.net; thuvienbaigiangdientu.bachkim.com ...

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_muoi_hai_bien_phap_giao_duc_hoc_sinh_c.doc