SKKN Một số suy nghĩ về phương pháp luận sáng tác thơ tuổi học trò Tập làm thơ bốn chữ
Trong sự nghiệp cách mạng vĩ đại của chủ tịch Hồ Chí Minh, thơ ca tuy không phải là hoạt dộng chính trị của người. Nhưng Bác đã đến với thơ ca trong những hoàn cảnh đặc biệt, và Bác đã làm thơ không ngoài mục đích đó: Tuyên truyền trực tiếp cho công tác cách mạng hoặc bộc lộ những suy nghĩ và tình cảm cao đẹp của mình với quần chúng nhân dân, với non sông đất nước.
Thơ của Bác là đỉnh cao của thơ ca cách mạng thời kì hiện đại. Đó là những vần thơ cực kì tinh khiết, giàu chất “ Thép” và chan chứa tình người. Thơ của Bác kết hợp một cách sâu sắc tinh tế nhiều vẻ đẹp trong thơ. Thơ Bác Hồ là tiếng nói bình dị, gần gũi và điêu luyện, sáng tạo, giàu cảm xúc và luôn bừng sáng trí tuệ, gắn với thực tiễn cách mạng và bay lên với bao khát vọng, ước mơ.
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Một số suy nghĩ về phương pháp luận sáng tác thơ tuổi học trò Tập làm thơ bốn chữ

PHÒNG GIÁO DỤC & ĐT HUYỆN ÂN THI TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ ĐA LỘC SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ SUY NGHĨ VỀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN SÁNG TÁC THƠ TUỔI HỌC TRÒ: TẬP LÀM THƠ BỐN CHỮ Người viết: Nguyễn Minh Đức Chức vụ : Phó Hiệu trưởng Đơn vị công tác: Trường Trung Học Cơ Sở Đa lộc Tháng 3 năm 2009 PHẦN A. ĐẶT VẤN ĐỀ. I. CƠ SỞ LÍ LUẬN: Trong sự nghiệp cách mạng vĩ đại của chủ tịch Hồ Chí Minh, thơ ca tuy không phải là hoạt dộng chính trị của người. Nhưng Bác đã đến với thơ ca trong những hoàn cảnh đặc biệt,và Bác đã làm thơ không ngoài mục đích đó: Tuyên truyền trực tiếp cho công tác cách mạng hoặc bộc lộ những suy nghĩ và tình cảm cao đẹp của mình với quần chúng nhân dân, với non sông đất nước. Thơ của Bác là đỉnh cao của thơ ca cách mạng thời kì hiện đại. Đó là những vần thơ cực kì tinh khiết, giàu chất “ Thép” và chan chứa tình người. Thơ của Bác kết hợp một cách sâu sắc tinh tế nhiều vẻ đẹp trong thơ. Thơ Bác Hồ là tiếng nói bình dị, gần gũi và điêu luyện, sáng tạo, giàu cảm xúc và luôn bừng sáng trí tuệ, gắn với thực tiễn cách mạng và bay lên với bao khát vọng, ước mơ. Thơ của Bác có giá trị tinh thần lớn lao của dân tộc và là hoa thơm, lộc quý của mọi nhà: Đó là những bài thơ mừng xuân của Bác: Xuân 1947 ( trang 71 ) Xuân 1948 ( trang 78 ) Xuân 1967 ( trang 82 ) Xuân 1968 ( trang 106 ) Xuân: Bác tròn 63 tuổi ( trang 99 ) Trong nhiều năm qua. Thơ Bác Hồ đã được nhiều các nhân văn, nhà thơ nghiên cứu như: 1. Đặng Thái Mai 2. Hoài Thanh 3. Hoàng Xuân Nhi 4. Hoàng Trung Thông 5. Chế Lan Viên 6. Xuân Diệu 7. Lưu Trọng Lư 8. Hà Minh Đức Yêu quý và thiết tha học tập tìm hiểu thơ Bác, chúng ta ước mong tìm hiểu một cách hệ thống và toàn diện hơn vẻ đẹp nội dung. Nghệ thuật trong thơ Bác. Một hiện tượng thơ ca kỳ diệu của thời kỳ hiện đại, một đỉnh cao nối tiếp những đỉnh cao một hiện tượng thơ ca quen thuộc, hồn thơ vĩ đại này thuộc về người anh hùng vĩ đại nhất trong lịch sử dân tộc ta từ trước tới nay. Trong sự nghiệp cách mạng lớn lao của chủ tịch Hồ Chí Minh văn thơ là một bộ phận gắn liền với những hoạt động Cách mạng phong phú của người. Đọc thơ của Bác, đồng chí Trường Chinh nhận xét: “ Trong thơ của Hồ Chủ Tịch, mỗi câu, mỗi chữ đều mang chất thép, đều toát ra tư tưởng và tình cảm của một chiến sĩ vĩ đại”. ( Trường Chinh: Hồ Chủ tịch, lãnh tụ kính yêu của giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam, nhà xuất bản sự thật Hà Nội 1975 trang 70 ). “ Vần thơ của Bác vần thơ thép Mà vẫn mênh mông bát ngát tình”. ( Hoàng Trung Thông ) Chất thép: Là tính chiến đấu, đấu tranh rắn rỏi, mạnh mẽ... Chất tình: Tính nhân văn, tình người, tình cảm, nhân hậu, tình yêu thương con người, thiên nhiên, đất nước... Mở đầu tập thơ “Nhật ký trong tù” Bác viết: “ Ngâm thơ ta vẫn không ham Nhưng vì trong ngục biết làm chi đây? Ngày dài ngâm ngợi cho khuây Vừa ngâm, vừa đợi đến ngày tự do”. Bác không làm theo cách nói ý tứ khiêm nhường của người xưa: Lão phu nguyên bất ái ngâm thi”. ( Câu thơ của nghiên phu đời Thanh). Mục đích của người cầm bút nói chung và người làm thơ nói riêng nhà thơ Sóng Hồng có viết: “ Lấy cán bút làm đòn xoay chế độ Mỗi vần thơ bom đạn phá cường quyền”. Vần thơ cũng phải đấu tranh cho lí tưởng của Đảng cho nhân loại. II. CƠ SỞ THỰC TIỄN: Trong nhà trường là nơi đào tạo thế hệ trẻ trở thành những con người mới, có kiến thức và trình độ văn hoá. Bởi vậy nhà trường có nhiệm vụ to lớn trong việc trang bị cho học sinh những kiến thức nói chung và vốn từ ngữ văn học nói riêng. Chính trong nhà trường là nơi đầu tiên trang bị và bồi dưỡng cho học sinh phát triển năng lực nhận thức cũng như phát hiện những tài năng của các em học sinh nhất là năng khiếu về văn học. Hoạt động ngữ văn là hình thức mới được đưa vào trong chương trình dạy học từ đầu cấp học THCS (lớp 6) xuất phát từ quan niệm cần đa dạng hoá các hình thức học tập, tăng cường cho học sinh có điều kiện luyện nói, luyện tập cách trình bày miệng, đưa học sinh vào các hoạt động tập thể, hoạt động văn hoá, vui mà bổ ích. Thông qua hoạt động này giúp cho học sinh có điều kiện làm quen và nắm được đặc điểm và nhận diện được thể thơ bốn chữ. Đây cũng là hình thức khuyến khích những sáng tạo cá nhân, động viên, phát hiện những học sinh có năng khiếu thơ văn. Mặc dù mục đích chính của môn Ngữ văn nhà trường nói chung và tiết học này nói riêng không phải hoàn toàn dạy cho học sinh làm thơ, sáng tác thơ, tuy vậy giữa học Văn và tập làm thơ,Văn có mối quan hệ và sự tác động lẫn nhau. Vì thế có những bài làm dở của học sinh thì cũng tìm ra chỗ chưa đúng, chưa hay, những bài hay, có tố chất văn thơ thì chúng ta động viên khuyến khích học sinh. Ví dụ: Bài thơ “ Mưa” ( Trang 78 – Ngữ văn 6 – Tập 2) được đưa vào học trong chương trình Ngữ văn lớp 6 – tiết 100 tự học có hướng dẫn. Đó là bài thơ của tác giả nhỏ tuổi Trần Đăng Khoa sáng tác vào năm 1967, khi đó mới 9 tuổi là học sinh tiểu học, tại trường làng của làng quê, huyện Nam Thanh, tỉnh Hải Dương. PHẦN B. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Với đặc trưng của môn Ngữ văn, ngoài việc trang bị cho học sinh kiến thức về Ngữ văn nói chung, bên cạnh đó còn phát hiện sớm những tài năng còn ngay khi còn ở lứa tuổi học trò. Tập làm thơ bốn chữ mới được đưa vào chương trình ngữ văn THCS nhằm bổ trợ cho các nội dung học tập về các thể trong phần văn và tạo ra hình thức học tập mới trong giảng dạy ngữ văn. Mục tiêu của các giờ tập làm thơ là thông qua thực hành, mà nắm được đặc điểm của từng thể thơ, từ đó biết nhận diện và tìm hiểu thơ trên những đặc điểm đó. Với nội dung tập làm thơ là phần cốt yếu, tuy nhiên không yêu cầu học sinh phải biết làm thơ hay nói cách khác sáng tác thơ một cách thành thạo. Tập làm thơ bốn chữ là bài học đầu tiên của nội dung chương trình ngữ văn lớp 6, do vậy cách tiến hành gìơ học cần tạo ra không khí nhẹ nhàng, linh hoạt như một hoạt động Ngữ văn vui và hứng thú, dựa trên những kinh nghiệm và hiểu biết đã có của học sinh về thể thơ bốn chữ để tập hệ thống hoá hiểu biết về đặc điểm thể thơ đó là: Số câu / dòng; Cách gieo vần; Ngắt nhịp. Từ đó học sinh mới có thể làm được thơ trước hết là thể thơ bốn chữ, bởi vì với đặc điểm chung của thể loại này rất gần gũi với cách nói thông thường phù hợp với văn kể, miêu tả. Thông qua thực tế giảng dạy, nguời giáo viên muốn cung cấp cho học sinh vừa nắm vững kiến thức Ngữ văn nói chung vừa nhận diện đặc điểm và bước đầu biết làm thơ bốn chữ. Bản thân tôi cũng đôi khi có sáng tác một số bài thơ thể bốn chữ vào mỗi dịp như ngày hội và những ngày kỉ niệm truyền thống, tuy số lượng chưa nhiều, chất lượng bài chưa cao, nhưng trong quá trình tích luỹ kinh nghiệm của bản thân đã có một số bài thơ về thể thơ bốn chữ. Cho nên tôi đã tìm tòi, suy nghĩ nghiên cứu áp dụng một số phương pháp có tính sáng tạo trong quá trình giảng dạy tiết hướng dẫn học sinh trong hoạt động ngữ văn: “Tập sáng tác thơ bốn chữ” ở lớp 6 bậc THCS. Qua thực tế giảng dạy tôi nhận thấy và rút ra nhận xét rằng : Trong quá trình giảng dạy cần khắc sâu vốn hiểu biét từ ngữ cho học sinh, để thấy được cái hay, cái đẹp của ngôn ngữ Việt Nam. PHẦN C : TÀI LIỆU THAM KHẢO Để cho nội dung đề tài SKKN được đảm bảo tính khoa học, tính sư phạm trước hết tài liệu tham khảo là điều kiện rất cần thiết có tác dụng không nhỏ trong việc nghiên cứu, đó là các tài liệu. 1. Căn cứ vào tài liệu SGK- SGV môn Ngữ văn 6. 2. Để học tốt Ngữ văn 6. 3. Cuốn sách khái quát về lịch sử tiếng việt và ngữ âm tiếng việt hiện đại - Tác giả Hữu Huỳnh – Vương Lộc. 4. Một số vấn đề đổi mới phương pháp dạy học môn ngữ văn – Nhà xuất bản Giáo dục – Tác giả Nguyễn Thuý Hồng – Nguyễn Quang Ninh 5. Tập thơ bốn chữ - Tham khảo minh hoạ. 6. Từ điển chính tả. 7. Tạp chí giáo dục. Tạp chí lí luận khoa học giáo dục. Bộ giáo dục và Đào tạo. 8. Một số kiến thức, kĩ năng và bài tập nâng cao Ngữ văn 6- NXB Giáo dục. PHẦN D – NỘI DUNG VÀ QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM I - CƠ SỞ KHOA HỌC: Với đặc trưng bộ môn ngữ văn nói chung, thông qua các tiết: Hoạt động ngữ văn, tập làm thơ bốn chữ. Nhằm giúp cho học sinh vốn hiểu biết từ ngữ cho học sinh, mở rộng vốn từ học sinh nắm được đặc điểm của thể thơ bốn chữ. Qua đó học sinh bước đầu biết vận dụng những hiểu biết về thể thơ bốn chữ và những yếu tố kể, tả khi tập làm thể thơ này. Đặc điểm thơ bốn chữ là bài thơ có nhiều dòng, mỗi dòng có bốn chữ, gieo vần lưng, phần chân xen kẽ, gieo Vần liền hoặc cách, hoặc hỗn hợp, nhịp thơ phổ biến 2/2, dễ làm, dài ngắn tự do, phù hợp với văn kể , miêu tả. Với đặc điểm vần trong bài thơ gồm có: - Vần lưng: Gieo vào giữa dòng thơ ( còn gọi là yêu vận ) - Vần chân: Gieo vào cuối dòng thơ ( còn gọi là ước vận ) - Vần liền: Gieo liên tiếp vần với nhau vào cuối dòng thơ - Vần cách: Gieo vần tách nhau cách dòng thơ ( còn gọi là gián cách ) - Vần hỗn hợp: Gieo không theo thứ tự nào (gồm tất cả các cách gieo vần nói trên ). Ví dụ như bài thơ: “Hạt gạo làng ta” của Nhà thơ Trần Đăng Khoa có nội dung kể và miêu tả: Hạt gạo làng ta Có bão tháng bảy Có mưa tháng ba Giọt mồ hôi sa Những trưa tháng sáu Nước như ai nấu Chết cả cá cờ Cua ngoi lên bờ Mẹ em xuống cấy... II- CƠ SỞ THỰC TIỄN: Thông qua tiết dạy theo phân phối chương trình ngữ văn 6 tiết 102: Tập làm thơ bốn chữ. Bước đầu giúp cho học sinh nắm được đặc điểm thơ bốn chữ, từ đó học sinh nhận được thể thơ này khi học và đọc thơ ca. Bài thơ có nhiều dòng, mỗi dòng có bốn chữ, thường ngắt nhịp 2/2, thích hợp với lối kể và tả, thường có cả vần lưng và phần chân xen kẽ, cách gieo vần liền, vần cách hay vần hỗn hợp. Đó là thể loại được xuất hiện nhiều trong tục ngữ, ca dao và đặc biệt là vẽ... Ví dụ: Chú bé loắt choắt Cái xắc xinh xinh Cái chân thoăn thoắt Cái đầu nghênh nghênh Ca nô đội lệch Mồm huýt sáo vang Như con chim ch
File đính kèm:
skkn_mot_so_suy_nghi_ve_phuong_phap_luan_sang_tac_tho_tuoi_h.pdf