Skkn một số kỹ thuật làm mẫu ngâm động vật có xương sống

I. Thực trạng tình hình.

Ở trường Phổ thông dân tộc nội trú Hà Tiên nói riêng và địa bàn các vùng dân tộc khmer nói chung lực học của các em học sinh ở đây chưa đồng đều và còn có những em học yếu, nhất là các môn thuộc khoa học tự nhiên. Trong những môn khoa học tự nhiên, môn hóa học là môn khó học nhất, khó ở chỗ các em chưa xác định bài toán thuộc dạng nào cần đi theo hướng nào để giải.

Lý do cơ bản dẫn đến các em còn hạn chế trong việc giải các bài tập là các em còn lười học lý thuyết, không biết áp dụng các kiến thức từ lý thuyết vào thực hành, ít chịu suy nghĩ, tìm tòi cách giải các bài tập hóa học. Các em ít chịu đem những bài tập khó đi trao đổi cách giải với bạn bè, hoặc với thầy cô trực tiếp giảng dạy, mặc dù các thầy cô giảng dạy ở cùng các em trong nội trú. Nên khả năng tiếp cận với các bài tập hóa học của các em là rất ít.

Ngoài ra các bài tập trong sách giáo khoa đôi khi chưa đi sát với nội dung bài, có những bài tập thì quá khó đối với những học sinh trung bình, yếu. Khi các em có học lực trung bình, yếu nếu gặp phải làm không được đâm ra chán nản lâu dần các em thường bỏ luôn và dẫn đến các em bị hổng kiến thức. Điều này càng làm cho sức học của các em yếu khi đó việc giải một bài tập hóa học đối với các em là vô cùng khó khăn.

Một thực trạng mà hiện nay nhiều học sinh mắc phải là các em học sinh học lý thuyết thì thuộc lòng nhưng không biết làm các bài tập, nhiều lý do dẫn đến điều đó trong đó có cả trường hợp một số em tuy thuộc bài nhưng không hiểu được nội dung do vốn tiếng Việt của các em còn hạn chế. Một số em bị hổng về kiến thức về môn toán nên khi gặp các công thức các em không biết biến đổi như thế nào hoặc là làm sai.

Ví dụ: Công thức tính nồng độ phần trăm C% = m_ct/m_dd .100% thì các em chỉ biết tính có nồng độ phần trăm thôi, còn khi hỏi về khối lượng dung dịch thì các em không biết biến đổi công thức.

Nhiều em hiểu được lý thuyết nhưng không biết một bài toán phải bắt đâu từ đâu. Một số em thì lại giải bài toán một các máy móc như trong sách giáo khoa, còn khi gặp một bài toán khác với dạng trong sách giáo khoa là các em bị bối rối không biết phải giải như thế nào, giải làm sao.

II. Những hạn chế, khó khăn khi giải quyết vấn đề.

 -Đại đa số các em đều sinh sống ở vùng sâu vùng xa, vốn Tiếng Việt còn hạn chế nên việc nghiên cứu sách giáo khoa, tài liệu còn gặp nhiều khó khăn dẫn đến việc chuẩn bị bài ở nhà của các em chưa đạt yêu cầu. Ảnh hưởng lớn đến việc giải bài tập của các em

 -Học sinh trong trường được tuyển từ nhiều nơi, vùng sâu, vùng xa khác nhau với nhiều hình thức đào tạo đặc biệt là các lớp phổ cập tiểu học dẫn đến trình độ kiến thức không đồng đều, nhiều em lười nghiên cứu, ngại tư duy dẫn đến thiếu tính sáng tạo trong học tập, làm cho việc học của các em trở nên máy móc.

 

docx 24 trang camtu 07/10/2022 8500
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Skkn một số kỹ thuật làm mẫu ngâm động vật có xương sống", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Skkn một số kỹ thuật làm mẫu ngâm động vật có xương sống

Skkn một số kỹ thuật làm mẫu ngâm động vật có xương sống
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
------------o0o------------
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
PHẦN I : PHẦN LÝ LỊCH
- Họ và tên : Võ Quang Khanh
- Chức vụ : Giáo viên
- Đơn vị công tác : Trường PT DTNT Hà Tiên
- Tên đề tài :
“MỘT SỐ KỸ THUẬT LÀM MẪU NGÂM ĐỘNG VẬT CÓ XƯƠNG SỐNG”
PHẦN II: PHẦN NỘI DUNG
A. LỜI NÓI ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Do nhu cầu phát triển xã hội ngày càng cao, đặc biệt là khi nước ta đang chuyển mình bước vào thời kì Công nghiệp hóa – Hiện đại hoá, thì vị trí của ngành giáo dục càng được nâng lên và chú trọng hơn nhằm mục đích đào tạo ra những con người mới XHCN có đức, có tài, có năng lực để đáp ứng được nhu cầu phát triển của toàn xã hội. 
Sự nghiệp xây dựng XHCN ở nước ta đang phát triển với tốc độ ngày càng cao, với qui mô ngày càng lớn và đang được tiến hành trong điều kiện cách mạng khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão nó tác động một cách toàn diện lên mọi đối tượng, thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội. Một trong những trọng tâm của sự phát triển đất nước là đổi mới nền giáo dục, phương hướng giáo dục của Đảng, Nhà nước và của ngành giáo dục và đào tạo trong thời gian trước mắt cũng như lâu dài là đào tạo những con người " Lao động, tự chủ, sáng tạo" có năng lực thích ứng với nền kinh tế thị trường, có năng lực giải quyết được những vấn đề thường gặp, tìm được việc làm, biết lập nghiệp và cải thiện đời sống một ngày tốt hơn.
Trước thực tiễn đó, từ năm học 2002 – 2003 Bộ Giáo Dục và Đào Tạo đã tiến hành đổi mới chương trình sách giáo khoa ở tất cả các môn học, nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng giáo dục để đáp ứng nhu cầu của thực tế. Để bồi dưỡng cho học sinh năng lực sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề, lý luận dạy học hiện đại khẳng định: Cần phải đưa học sinh vào vị trí chủ thể hoạt động nhận thức, học trong hoạt động. Học sinh bằng hoạt động tự lực, tích cực của mình mà chiếm lĩnh kiến thức. Quá trình này được lặp đi lặp lại nhiều lần sẽ góp phần hình thành và phát triển cho học sinh năng lực tư duy sáng tạo.
 Tăng cường tính tích cực phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh trong quá trình học tập là một yêu cầu rất cần thiết, đòi hỏi người học tích cực, tự lực tham gia sáng tạo trong quá trình nhận thức. 
Bộ môn Hoá học ở phổ thông có mục đích trang bị cho học sinh hệ thống kiến thức cơ bản, bao gồm các kiến thức về cấu tạo chất, phân loại chất và tính chất của chúng. Với việc nắm vững các kiến thức cơ bản sẽ góp phần nâng cao chất lượng đào tạo ở bậc học, trang bị cho học sinh những kiến thức cơ bản để học sinh tham gia vào các lao động sản xuất và các hoạt động sau này. 
Để đạt được mục đích trên, ngoài hệ thống kiến thức về lý thuyết là cơ bản thì hệ thống bài tập Hoá học giữ một vị trí và vai trò rất quan trọng trong việc dạy và học Hoá học ở trường phổ thông nói chung, đặc biệt là lớp 8, lớp 9 ở trường THCS nói riêng. Bài tập Hoá học giúp người giáo viên kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh, từ đó phân loại học sinh để có kế hoạch giảng dạy sát với đối tượng. Qua nhiều năm giảng dạy chương trình hóa học khối trung học cơ sở, bản thân tôi thấy rõ nhiệm vụ của mình cần trang bị cho học sinh những kiến thức cơ bản nhất để làm nền tảng cho cấp học tiếp theo. Muốn thực hiện được điều đó người giáo viên dạy hoá học phải nắm vững nội dung chương trình, phương pháp giảng dạy và cần nắm vững hệ thống các bài tập cơ bản của từng chương, nhất là cách giải tổng quát cho từng dạng bài tập, biết sử dụng bài tập phù hợp với từng nội dung giảng dạy như : kiểm tra bài cũ, hệ thống bài tập củng cố, bài tập về nhà, luyện tập, kiểm tra ,... nhằm đánh giá mức độ nhận thức kiến thức của học sinh. Từ đó đưa ra bài tập ở các mức khác nhau cho từng đối tượng học sinh khác nhau: Giỏi, Khá , TB, Yếu.
 Bài tập Hoá học rất đa dạng và phong phú song với những nhận thức trên, là một giáo viên giảng dạy tại trường phổ thông Dân tộc nội trú. Tôi thấy chất lượng đối tượng học sinh ở đây chưa đồng đều, một số học sinh vận dụng kiến thức để giải bài toán Hoá học chưa được thành thạo. Vì vậy muốn nâng cao chất lượng bộ môn người giáo viên cần suy nghĩ tìm ra phương pháp giảng dạy. Phân loại các dạng bài tập Hoá học phù hợp với đặc điểm của học sinh, nhằm phát triển năng lực tư duy, sáng tạo và gây hứng thú học tập cho các em.
 Từ những vấn đề trên, với mong muốn góp phần nhỏ bé của mình vào việc tìm tòi phương pháp dạy học thích hợp với những điều kiện hiện có của đơn vị, nhằm phát triển tư duy của học sinh, giúp các em tự lực hoạt động tìm tòi chiếm lĩnh tri thức, tạo tiền đề quan trọng cho việc phát triển tư duy của các em ở các cấp học cao hơn. Nên tôi đã chọn đề tài: "Phân dạng bài toán Hoá học lớp 9 ".
II. Sơ lược đề tài
Phân dạng các bài toán Hoá học nhằm nâng cao chất lượng học tập môn hoá học của học sinh lớp 9 ở trường Phổ thông Dân tộc nội trú Hà Tiên
Việc phân dạng các bài toán Hoá học sẽ đạt được hiệu quả cao và sẽ là tiền đề cho việc phát triển năng lực trí tuệ của học sinh ở cấp học cao hơn, khi giáo viên sử dụng linh hoạt và hợp lý hệ thống các dạng bài tập hoá học theo mức độ và trình độ tư duy của học sinh phù hợp với đối tượng học sinh lớp 9.
	Trong đề tài này tôi đã vận dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học như: Phân tích lý thuyết, điều tra cơ bản, tổng kết kinh nghiệm sư phạm và sử dụng một số phương pháp thống kê toán học trong việc phân tích kết quả thực nghiệm sư phạm 
Tham khảo các tài liệu đã được biên soạn và phân tích hệ thống các dạng bài toán hoá học theo nội dung đã đề ra.
Trên cơ sở đó tôi đã trình bày các dạng bài toán hoá học đã sưu tầm và nghiên cứu để nâng cao khả năng, trí tuệ của học sinh.
	Một số học sinh có tư duy hoá học phát triển là năng lực quan sát tốt, có trí nhớ lô-gíc, nhạy bén, có óc tưởng tượng linh hoạt phong phú, ứng đối sắc xảo với các vấn đề của hoá học và làm việc có phương pháp.
III. Phạm vi của đề tài:
1. Nêu lên được cơ sở lý luận của việc phân dạng các bài toán Hoá học trong quá trình dạy và học
2. Tiến hành điều tra tình hình nắm vững kiến thức cơ bản của học sinh lớp 9 ở trường Phổ thông Dân tộc nội trú.
3. Hệ thống bài toán Hoá học theo từng dạng.
4. Bước đầu sử dụng việc phân loại các dạng bài toán Hoá học, nhằm giúp cho học sinh lĩnh hội các kiến thức một cách vững chắc và rèn luyện tính độc lập hành động và trí thông minh của học sinh.
B. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ
I. Thực trạng tình hình.
Ở trường Phổ thông dân tộc nội trú Hà Tiên nói riêng và địa bàn các vùng dân tộc khmer nói chung lực học của các em học sinh ở đây chưa đồng đều và còn có những em học yếu, nhất là các môn thuộc khoa học tự nhiên. Trong những môn khoa học tự nhiên, môn hóa học là môn khó học nhất, khó ở chỗ các em chưa xác định bài toán thuộc dạng nào cần đi theo hướng nào để giải. 
Lý do cơ bản dẫn đến các em còn hạn chế trong việc giải các bài tập là các em còn lười học lý thuyết, không biết áp dụng các kiến thức từ lý thuyết vào thực hành, ít chịu suy nghĩ, tìm tòi cách giải các bài tập hóa học. Các em ít chịu đem những bài tập khó đi trao đổi cách giải với bạn bè, hoặc với thầy cô trực tiếp giảng dạy, mặc dù các thầy cô giảng dạy ở cùng các em trong nội trú. Nên khả năng tiếp cận với các bài tập hóa học của các em là rất ít.
Ngoài ra các bài tập trong sách giáo khoa đôi khi chưa đi sát với nội dung bài, có những bài tập thì quá khó đối với những học sinh trung bình, yếu. Khi các em có học lực trung bình, yếu nếu gặp phải làm không được đâm ra chán nản lâu dần các em thường bỏ luôn và dẫn đến các em bị hổng kiến thức. Điều này càng làm cho sức học của các em yếu khi đó việc giải một bài tập hóa học đối với các em là vô cùng khó khăn..
Một thực trạng mà hiện nay nhiều học sinh mắc phải là các em học sinh học lý thuyết thì thuộc lòng nhưng không biết làm các bài tập, nhiều lý do dẫn đến điều đó trong đó có cả trường hợp một số em tuy thuộc bài nhưng không hiểu được nội dung do vốn tiếng Việt của các em còn hạn chế. Một số em bị hổng về kiến thức về môn toán nên khi gặp các công thức các em không biết biến đổi như thế nào hoặc là làm sai. 
Ví dụ: Công thức tính nồng độ phần trăm C% = mctmdd.100% thì các em chỉ biết tính có nồng độ phần trăm thôi, còn khi hỏi về khối lượng dung dịch thì các em không biết biến đổi công thức.
Nhiều em hiểu được lý thuyết nhưng không biết một bài toán phải bắt đâu từ đâu. Một số em thì lại giải bài toán một các máy móc như trong sách giáo khoa, còn khi gặp một bài toán khác với dạng trong sách giáo khoa là các em bị bối rối không biết phải giải như thế nào, giải làm sao.
II. Những hạn chế, khó khăn khi giải quyết vấn đề.
	-Đại đa số các em đều sinh sống ở vùng sâu vùng xa, vốn Tiếng Việt còn hạn chế nên việc nghiên cứu sách giáo khoa, tài liệu còn gặp nhiều khó khăn dẫn đến việc chuẩn bị bài ở nhà của các em chưa đạt yêu cầu. Ảnh hưởng lớn đến việc giải bài tập của các em
	-Học sinh trong trường được tuyển từ nhiều nơi, vùng sâu, vùng xa khác nhau với nhiều hình thức đào tạo đặc biệt là các lớp phổ cập tiểu học dẫn đến trình độ kiến thức không đồng đều, nhiều em lười nghiên cứu, ngại tư duy dẫn đến thiếu tính sáng tạo trong học tập, làm cho việc học của các em trở nên máy móc.
	-Tài liệu sách giáo khoa trong thư viện nhiều, đa dạng nhưng những sách tham khảo với bài toán hóa học hay phù hợp với các em lại thiếu.
	-Những học sinh ở ngoại trú ngoài giờ học về nhà phụ giúp gia đình nên thời gian tự học còn lại rất ít, và các em thường dành chút ít thời gian đó vào việc học lý thuyết, nên không có thời gian để giải bài tập. Hơn nữa, phần lớn phụ huynh học sinh của các em không quan tâm đến vấn đề học tập, mọi hoạt động và học tập của các em phụ huynh thường khoán trắng toàn bộ cho nhà trường.
	-Đại đa số các em rất nhút nhát trong việc bày tỏ ý kiến của mình trước đám đông, trước các bạn đồng trang lứa. Chính điều đó làm cho các em ngại bày tỏ ý kiến của mình trước lớp chính vì thế làm hạn chế khả năng tìm tòi học hỏi lẫn nhau ở các em.
	-Do sự hiểu biết về ngôn ngữ Khmer của giáo viên còn hạn hẹp nên giải thích vấn đề cho học sinh hiểu là việc hết sức khó khăn.
C. GIẢI PHÁP VÀ KẾT QUẢ ... l trong 5 tấn nước biển. Biết rằng nồng độ muối ăn NaCl trong nước biển là 0,01% ?
Nghiên cứu đề bài: Biểu thức có liên quan C% = mctmdd.100
Hướng dẫn giải
Xác định lời giải
Bước 1: Viết công thức tính C%
Bước 2: Rút mct , đổi tấn ra gam
Bước 3: Thay các đại lượng và tính toán
Bước 4: Trả lời
Lời giải
C% = mctmdd.100
mct = C%.mdd100
mct = 0,01.5000000100 = 500g
Có 500 g NaCl trong 5 tấn nước biển
Tính khối lượng dung dịch
Ví dụ : Cần lấy bao nhiêu g dd H2SO4 49% để trong đó có chứa 4g H2SO4?
Nghiên cứu đề bài: Biểu thức có liên quan C% = mctmdd.100
Hướng dẫn giải
Xác định lời giải
Bước 1: Viết công thức tính C%
Bước 2: Rút mdd 
Bước 3: Thay các đại lượng và tính toán
Bước 4: Trả lời
Lời giải
C% = mctmdd.100
mdd = mct .100C%
mdd = 4.10049=8.2g
3. Tính nồng độ CM của dung dịch
Tính nồng độ mol của dung dịch
Ví dụ: Làm bay hơi 150 ml dd CuSO4 người ta thu được 1,6 g muối khan. Hãy tính CM của dung dịch ?
Nghiên cứu đầu bài: Tính số mol CuSO4 có trong 1 lít dd, suy ra CM
Hướng dẫn giải
Xác định lời giải
Bước 1: Đổi ra mol
Bước 2: Đổi ra lít
Bước 3: Tính CM
Lời giải
 MCuSO4= 160g
nCuSO4= 1,6160=0,01 mol
 V = 0,15lít
CM = nV
CM = 0,010,15=0,07M
Tính thể tích dung dịch
Ví dụ Cần phải lấy bao nhiêu ml dd NaOH 1M để trong đó có chứa 4g NaOH ?
Nghiên cứu đầu bài: Công thức có liên quan CM = nV , n = mM
Hướng dẫn giải
Xác định lời giải
Bước 1: Viết công thức tính
Bước 2: Chuyển đổi công thức tính
Tính số mol chất
Bước 3: Tính V
Lời giải
 CM = nV
 V = nCM
n = 440=0,1mol 
V = 0,11=0,1 lít
4. Bài toán pha trộn các dd có nồng độ khác nhau:
Bài toán về pha trộn các dung dịch có C% khác nhau (chất tan giống nhau)
 Loại bài toán này có cách giải nhanh gọn là áp dụng phương pháp đường chéo
Khi trộn dung dịch 1 với dung dịch 2 của cùng một chất tan thu được dung dịch 3 ta có:
mt1 + mt2 = mt3
mdd1 + mdd2 = mdd3
* Trộn a g dung dịch 1 có nồng độ C1% với b g dung dịch 2 có nồng độ C2% được dung dịch 3 có nồng độ C3% thì cách biểu diễn đường chéo là: 
a g dung dịch 1 C1% C2 = C3 – C2
	C3% 
b g dung dịch 1 C2% C1 = C1 – C3 
Suy ra : 
Ví dụ: Cần phải lấy bao nhiêu g dd NaCl nồng độ 20% vào 400 g dd NaCl nồng độ 15% để được dd NaCl có nồng độ 16% ?
Hướng dẫn giải
Xác định lời giải
Bước 1: Hướng dẫn học sinh lập sơ đồ đường chéo
Bước 2: Tìm tỷ lệ: 
Bước 3: Thay các đại lượng và tính toán
Bước 4: Trả lời
Lời giải
20 16 – 15 = 1
 16 
15 20 – 16 = 4
Ta có : ó a = =100 g 
Vậy cần phải lấy 100g dd NaCl 
có C% = 20%
Bài toán về pha trộn các dung dịch có CM khác nhau (chất tan giống nhau)
Ta có: Vdd1 + Vdd2 = Vdd3
* Nếu trộn V1 lít dung dịch 1 có nồng độ mol/l là C1 với V2 lít dung dịch có nồng độ mol/l là C2 được dung dịch 3 có nồng độ mol/l là C3 thì cách biểu diễn đường chéo là:
 C1 C2 = C3 – C2
	 C3 
 C2 C1 = C1 – C3 
Suy ra: 
Ví dụ: Cần dùng bao nhiêu ml dd H2SO4 2,5 M và bao nhiêu ml dd H2SO4 1M để khi pha trộn chúng với nhau được 600ml H2SO4 1,5 M?
Hướng dẫn giải
Xác định lời giải
Bước 1: Hướng dẫn học sinh lập sơ đồ đường chéo
Bước 2: Tìm tỷ lệ: 
Bước 3: Thay các đại lượng và tính toán
Bước 4: Trả lời
Lời giải
2,5 1,5 – 1 = 0,5
 1,5 
1 2,5 – 1,5 = 1
Ta có : ó 0,5V2 = V1 (1)
V1 + V2 = 600 (2)
Từ (1) và (2) ta có hệ	0,5V2 = V1 
	V1 + V2 = 600 
Giải hệ ta được V1 = 200 ml;V2 = 400ml
Vậy phải dùng 200ml dd H2SO4 2,5M pha với 400ml dd H2SO4 1M.
Bài toán về pha trộn các dung dịch có D khác nhau (chất tan giống nhau)
 Ta cũng áp dụng sơ đồ đường chếo giống với các dạng ở trên
 Khi đó ta có: 
Ví dụ: Cần pha bao nhiêu ml dd NaOH (D = 1,26 g/ml với báo nhiêu ml dd NaOH (D = 1,06 g/ml) để được 500ml dd NaOH có D = 1,16 g/ml ?
Hướng dẫn giải
Xác định lời giải
Bước 1: Hướng dẫn học sinh lập sơ đồ đường chéo
Bước 2: Tìm tỷ lệ : 
Bước 3: Thay các đại lượng và tính toán
Bước 4: Trả lời
Lời giải
1,26 0,1
 1,16 
1,06 0,1
Ta có : ó V2 = V1 = 250ml
Vậy phải dùng 250ml dd NaOH (D = 1,26 g/ml với 250ml dd NaOH (D = 1,06 g/ml) 
5. Mối quan hệ giữa C% và CM
 Để chuyển đổi giữa C% và CM (hay ngược lại) nhất thiết phải biết khối lượng riêng D = 
 Ta có thể sử dụng công thức giữa hai nồng độ: CM = C%. 
Ví dụ: Cho biết 200C, độ tan của CaSO4 là 0,2 g và khối lượng riêng của dd bão hoà là 1g/ml. Tính C% và CM của dd CaSO4 bão hoà ở nhiệt độ trên ?
Hướng dẫn giải
Xác định lời giải
Bước 1: Hướng dẫn học sinh tính khối lượng dung dịch
Bước 2: Tính nồng độ phần trăm dung dịch
Bước 3: Tính nồng độ mol/l của dung dịch
Bước 4: Trả lời
Lời giải
 Khối lượng dd là: 0,2 + 100 =100,2 g 
Vậy C % = = = 0,19%
CM = C%. = .0,19 =1,014M
DẠNG 6: BÀI TOÁN HIỆU SUẤT PHẢN ỨNG
1. Bài toán tính khối lượng chất ban đầu hoặc khối lượng chất tạo thành khi biết hiệu suất
Dạng bài toán này ta cần hướng dẫn học sinh giải bình thường như chưa biết hiệu suất phản ứng. Sau đó bài toán yêu cầu:
Tính khối lượng sản phẩm thì:
Tính khối lượng chất tham gia thì:
Ví dụ: Nung 120 g CaCO3 lên đến 10000C . Tính khối lượng vôi sống thu được, biết H = 80%.
	Giải
PTHH: CaCO3 CaO + CO2
= 1,2 mol
Theo PTHH ta có số mol CaO được tạo thành là 1,2 mol 
mCaO = 1,2 .56 = 67,2 g . 
Hiệu suất H = 80% = 0,8
Vậy khối lượng thực tế thu được CaO là: 67,2.0,8 = 53,76 g
2. Bài toán tính hiệu suất của phản ứng
Ta có: H = 
Ví dụ: Người ta khử 16g CuO bằng khí H2 . Sau phản ứng người ta thu được 12g Cu . Tính hiệu suất khử CuO ?
Giải
PTHH: H2 + CuO Cu + H2O
nCuO = = 0,2 mol 
Theo PTHH số mol Cu tạo thành là: 0,2 mol
mCu = 0,2.64 = 12,8 g ; H = 
DẠNG 7: BÀI TOÁN VỀ HỖN HỢP
Đối với dạng bài toán hỗn hợp thì thường ta phải hướng dẫn học sịnh lập phương trình hoặc hệ phương trình để tìm ra các đại lượng cần tìm.
Ví dụ 1: Hoà tan một lượng hỗn hợp 19,46 g gồm Mg, Al, Zn ( trong đó số g của Mg bằng số gam Al) bằng một lượng dd HCl 2M .Sau phản ứng thu được 16,352 lít H2 ( đktc).Tính số gam mỗi kim loại đã dùng ?
	Giải
PTHH: Mg + 2HCl MgCl2 + H2
	 a mol	 a mol
 2Al + 6HCl 2AlCl3 +3 H2	
	 b mol	mol
	 Zn + 2HCl ZnCl2 + H2
	 c mol 	 c mol
Gọi a,b,c là số mol lần lượt của Mg; Al; Zn
 Theo các PTHH trên ta có: Số mol H2 là:( a + + c) = 0,73 mol
Ta có các phương trình về khối lượng của hỗn hợp:
24a + 27b + 65c = 19,46
24a = 27b 
Kết hợp lại ta có hệ: 	 ( a + + c) = 0,73
 24a + 27b + 65c = 19,46
 24a = 27b 
Giải hệ ra ta được: a = 0,27 , b = 0,24 , c = 0,1
Vậy mMg = 0,27.24 = 6,48 g; mAl = 27.0,24 = 6,48 g mZn = 0,1.65 = 6,5 g
II. Kết quả đạt được 
Với những cách phân dạng trên bản thân tôi đã áp dụng những kinh nghiệm này vào thực tế, trong những năm học vừa qua tôi nhận thấy khả năng phân tích và giải một bài toán hóa học được nâng lên rõ rệt. Các học sinh giải tốt bài tập cũng tăng lên. Tính từ năm học 2005 – 2006 trở lại đây kết quả đạt được như sau :
TBm
Gioûi
Khaù
Trung bình
Yeáu
Năm học 2005 – 2006
13%
29%
58%
Naêm hoïc 2006 – 2007
14,8%
28,5%
56,7%
Naêm hoïc 2007 – 2008
16,7%
31,2%
50%
2,1%
Naêm hoïc 2008 – 2009 
20,7% 
41,4% 
37,9%
Học kì I naêm hoïc 2009 – 2010 
18,8% 
40,3% 
37,9%
6,8%
D. KẾT LUẬN
I. Tóm lược giải pháp.
Đề tài này tôi trình bài những cách phân loại, hướng dẫn giải các bài toán thuộc các dạng khác nhau nhằm giúp học sinh dễ dàng nhận biết từng loại bài và đưa ra cách giải nhanh và chính xác nhất. 
Trong phần hướng dẫn giải tôi nêu ra từng bước cụ thể giúp các em dễ dàng hình thành kỹ năng phát hiện các dạng bài. Trong đề tài này tôi phân thành các dạng bài sau đây:
Dạng 1: Tính theo công thức hóa học
Dạng 2 : Bài toán về lập công thức hóa học
Dạng 3: bài toán cơ bản về mol, khối lượng mol và thể tích mol chất khí
Dạng 4 :Bài toán tính theo phương trình hoá học
Dạng 5: Bài toán về dung dịch và nồng độ dung dịch
Dạng 6: Bài toán hiệu suất phản ứng
Dạng 7: Bài toán về hỗn hợp
II . Phạm vi áp dụng của đề tài.
Đề tài này được tôi áp dụng trong dạy học tại trường Phổ thông Dân tộc nội trú Hà Tiên tôi thu được một số kết quả khả quan.
Số lượng học sinh hiểu bài thao tác thành thạo các dạng bài tập hoá học ngay tại lớp chiếm tỷ lệ cao.
Giáo viên tiết kiệm được thời gian, học sinh tự giác, độc lập làm bài. Phát huy được tính tích cực của học sinh.
Dựa vào sự phân loại bài tập giáo viên có thể phụ đạo học sinh yếu, bồi dưỡng học sinh khá giỏi.
Tôi nghĩ rằng nếu đề tài này được áp dụng rộng rãi ở các trường trung tâm thị xã thì kết quả đạt được sẽ cao hơn.
III. BÀI HỌC KINH NGHIỆM
	-Người giáo viên phải có tâm huyết với nghề, chịu khó học hỏi, không ngừng nâng cao kiến thức và trình độ chuyên môn.
	-Giáo viên không nên dạy theo cách truyền đạt một chiều, áp đặt học sinh làm theo người thầy hay làm theo sách giáo khoa một các máy móc mà phải truyền đạt hướng dẫn cho các em học sinh những cái chung nhất, từ cái chung đó các em phân tích, phân loại để tìm ra cách giải đúng cho riêng mình.
	-Giáo viên không chỉ là người truyền kiến thức cho học sinh mà là người tổ chức hướng dẫn học sinh phát hiện và chiếm lĩnh kiến thức mới.
	-Khi soạn bài nên chú ý vào những hoạt động của học sinh nhằm giúp học sinh tự phát hiện ra kiến thức bài học.
	-Học sinh biết quan sát, ghi nhận phát hiện ra những dạng bài tập để tự mình đề ra phương pháp giải quyết.
	-Chuẩn bị hệ thống bài tập và những thí nghiệm đặc biệt là những thí nghiệm có liên quan đến kiến thức bài toán hóa học sẽ giúp các em hình thành được những kỹ năng giải toán. 
	-Cần tạo không khí cởi mở trong từng tiết dạy làm cho tình cảm thầy – trò thân thiết hơn từ đó các em tiếp thu bài một cách hiệu quả hơn.
	Trên đây là một số kinh nghiệm mà bản thân tôi đã thu thập và áp dụng qua những năm tháng đứng trên bục giảng. Nhìn chung đã đạt được những kết quả khả quan. Song không thể trách được những sai sót trong quá trình thực hiện, rất mong sự đóng góp chân tình của quý đồng nghiệp để những kinh nghiệm trên được hoàn chỉnh. Cũng hy vọng rằng những kinh nghiệm trên đây sẽ góp một phần nhỏ bé vào sự nghiệp “trồng người” của chúng ta ngày một hoàn thiện hơn.
 Tôi xin chân thành cảm ơn !
	Hà Tiên, ngày 29/04/2010
 Hội đồng Chấm SKKN	Người viết
	Võ Quang Khanh

File đính kèm:

  • docxskkn_mot_so_ky_thuat_lam_mau_ngam_dong_vat_co_xuong_song.docx