SKKN Một số kinh nghiệm hình thành và bồi dưỡng kỹ năng nói cho học sinh Lớp 1
Ở Tiểu học môn Tiếng Việt có vị trí vô cùng quan trọng. Học tốt môn Tiếng Việt các em có cơ sở để tiếp thu và diễn đạt tốt các môn học khác. Trong bốn kĩ năng: (Nghe, nói, đọc, viết) thì kỹ năng nói có vị trí thứ hai trong yêu cầu cơ bản cần đạt của học sinh. Kỹ năng nói góp một phần quan trọng đáng kể giúp học sinh Tiểu học nói chung, học sinh lớp 1 nói riêng học tốt các phân môn Kể chuyện, Luyện từ và câu
Kỹ năng nói tốt sẽ giúp chúng ta chiếm được tình cảm của mọi người, giúp chúng ta tự tin hơn khi diễn đạt một vấn đề gì đó trước tập thể. Học sinh đầu cấp nói tốt sẽ giúp các em diễn đạt rõ ràng, mạch lạc, mạnh dạn trình bày suy nghĩ của mình cũng như trong việc góp ý xây dựng bài. Trước thời đại thông tin: tuyên truyền, điện thoại, diễn thuyết cũng rất cần đến kĩ năng nói. Trong việc học tập với phương pháp mới: phát huy tích cực của học sinh phải trình bày lời nói trong giải thích, mô tả rất cần đến kỹ năng nói. Trong sinh hoạt, Kỹ năng nói là một phần quan trọng trong kỹ năng giao tiếp là một kỹ năng sống rất cần cho mỗi học sinh.
Ngày nay trong sự phát triển của nền kinh tế tri thức, thời đại bùng nổ công nghệ thông tin, ngôn ngữ nói được thay bằng ngôn ngữ viết qua máy tính (gửiE.mall, chát, nhắn tin trên mạng). Như vậy, việc rèn luyện bồi dưỡng kĩ năng nói cho học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp 1 nói riêng chưa được chú trọng, chưa quan tâm đúng mức. Trong thực tế cho thấy, một số người có trình độ cao khi viết một văn bản nào đó đọc nghe rất có tính thuyết phục nhưng khi trình bày ý kiến trước đám đông lại gặp rất nhiều khó khăn.
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Một số kinh nghiệm hình thành và bồi dưỡng kỹ năng nói cho học sinh Lớp 1

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ KINH NGHIỆM HÌNH THÀNH VÀ BỒI DƯỠNG KỸ NĂNG NÓI CHO HỌC SINH LỚP 1 I. PHẦN MỞ ĐẦU I.1. Lý do chọn đề tài. Ở Tiểu học môn Tiếng Việt có vị trí vô cùng quan trọng. Học tốt môn Tiếng Việt các em có cơ sở để tiếp thu và diễn đạt tốt các môn học khác. Trong bốn kĩ năng: (Nghe, nói, đọc, viết) thì kỹ năng nói có vị trí thứ hai trong yêu cầu cơ bản cần đạt của học sinh. Kỹ năng nói góp một phần quan trọng đáng kể giúp học sinh Tiểu học nói chung, học sinh lớp 1 nói riêng học tốt các phân môn Kể chuyện, Luyện từ và câu Kỹ năng nói tốt sẽ giúp chúng ta chiếm được tình cảm của mọi người, giúp chúng ta tự tin hơn khi diễn đạt một vấn đề gì đó trước tập thể. Học sinh đầu cấp nói tốt sẽ giúp các em diễn đạt rõ ràng, mạch lạc, mạnh dạn trình bày suy nghĩ của mình cũng như trong việc góp ý xây dựng bài. Trước thời đại thông tin: tuyên truyền, điện thoại, diễn thuyết cũng rất cần đến kĩ năng nói. Trong việc học tập với phương pháp mới: phát huy tích cực của học sinh phải trình bày lời nói trong giải thích, mô tả rất cần đến kỹ năng nói. Trong sinh hoạt, Kỹ năng nói là một phần quan trọng trong kỹ năng giao tiếp là một kỹ năng sống rất cần cho mỗi học sinh. Ngày nay trong sự phát triển của nền kinh tế tri thức, thời đại bùng nổ công nghệ thông tin, ngôn ngữ nói được thay bằng ngôn ngữ viết qua máy tính (gửiE.mall, chát, nhắn tin trên mạng). Như vậy, việc rèn luyện bồi dưỡng kĩ năng nói cho học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp 1 nói riêng chưa được chú trọng, chưa quan tâm đúng mức. Trong thực tế cho thấy, một số người có trình độ cao khi viết một văn bản nào đó đọc nghe rất có tính thuyết phục nhưng khi trình bày ý kiến trước đám đông lại gặp rất nhiều khó khăn. Cho nên với học sinh lớp 1, các em là một thế hệ trẻ chập chững mới bước vào đời lại không có ý thức trong việc sử dụng ngôn ngữ, khả năng giao tiếp còn hạn chế. + Các em còn nhút nhát, chưa tự tin trong lúc nói, tìm tiếng, tìm từ còn chậm trong khi nói, nói không thành câu. + Nói không rõ lời, chưa phát âm chuẩn, nhiều học sinh nói còn kéo dài, chưa trôi chảy, chưa lưu loát, chưa biểu cảm. Đó là những vấn đề bức xúc của những giáo viên dạy lớp 1 nói riêng, giáo viên Tiểu học và những người làm công tác giáo dục nói chung. Chính vì vậy, là một giáo viên nhiều năm dạy lớp 1, tôi nhận thấy mình phải làm gì đó để giúp các em sử dụng ngôn ngữ tốt hơn, có những lời nói rõ ràng đủ câu, lưu loát, mạnh dạn, tự tin hơn khi giao tiếp trong cuộc sống hằng ngày, đồng thời góp phần phát triển nhân cách toàn diện cho học sinh, giúp các em trở thành người có ích cho xã hội. Thực hiện nhiệm vụ năm học 2012-2013, được sự phân công chỉ đạo của nhà trường tôi đã mạnh dạn nghiên cứu đề tài: “Một số kinh nghiệm hình thành và bồi dưỡng kỹ năng nói cho học sinh lớp 1”. I.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài - Giúp cho học sinh có ý thức trong việc sử dụng ngôn ngữ khi giao tiếp, rèn cho học sinh nói đủ câu, lưu loát, suy nghĩ mạch lạc, diễn đạt rõ ràng, trong sáng, có khả năng làm chủ được tiếng nói và chữ viết của mình. - Giúp cho học sinh biết ứng xử các tình huống khi giao tiếp một cách nhạy bén, lễ phép, thông minh hơn. - Đưa ra những biện pháp bồi dưỡng kỹ năng nói cho học sinh lớp 1. - Tạo cơ hội cho các em mạnh dạn, tự tin khi giao tiếp, khám phá diễn đạt ý tưởng trước đám đông, thành công trong công việc. Đồng thời góp phần phát triển nhân cách toàn diện cho học sinh, giúp các em có được kỹ năng sống tốt để trở thành người có ích cho xã hội. I.3. Đối tượng nghiên cứu. - Học sinh lớp 1, qua những năm học trước tại trường Tiểu học Nguyễn Văn Trỗi. - Qua giao lưu, tiếp xúc với giáo viên trường bạn. I.4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu. Thực hiện quan điểm giao tiếp trong dạy học Tiếng Việt, việc dạy kỹ năng nói cho học sinh được quan tâm rất nhiều, đặc biệt với học sinh ở lớp đầu cấp sẽ giúp các em biết cách giao tiếp ứng xử trong nhiều tình huống cuộc sống và giúp các em phát triển được tất cả các dạng lời nói mà cuộc sống đang đòi hỏi ở các em, hướng các em trở thành người năng động, sáng tạo, hoàn thiện Trong phạm vi đề tài này tôi xin được trình bày vấn đề: “Một số kinh nghiệm hình thành và bồi dưỡng kỹ năng nói cho học sinh lớp 1”. I.5. Phương pháp nghiên cứu. Trong quá trình hình thành và bồi dưỡng kỹ năng nói cho học sinh tôi đã kết hợp các phương pháp sau: - Phương pháp trực quan, phương pháp quan sát, giảng giải để giải quyết vấn đề. - Phân tích những nguyên nhân nhân dẫn đến yếu kém trong việc rèn kĩ năng nói của học sinh. - Thực hành, luyện tập. - Tiến hành trên lớp chủ nhiệm, lồng ghép trong các môn học khác, các tiết sinh hoạt ngoại khoá, sinh hoạt lớp II. PHẦN NỘI DUNG II.1. Cơ sở lý luận. Trong chương trình Tiểu học, môn Tiếng Việt có vị trí vô cùng quan trọng. Môn học này là nền tảng, là cơ sở giúp học sinh có thể học tốt các môn học khác. Tiếng Việt vừa là công cụ, vừa là phương tiện giúp các em lĩnh hội kiến thức, rèn kỹ năng, kỹ xảo phát triển tư duy. Mục tiêu của chương trình môn Tiếng Việt Tiểu học: “Hình thành và phát triển các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết) để giúp học sinh học tập và giao tiếp trong môi trường của lứa tuổi”. Mục tiêu đó coi trọng tính thực hành các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt trong những môi trường giao tiếp cụ thể. Quan điểm dạy học giao tiếp, cụ thể là quan điểm dạy học phát triển lời nói được xây dựng trong chương trình môn Tiếng Việt. Mỗi nội dung dạy học đều hướng tới phát triển lời nói. Vấn đề phát triển lời nói cho học sinh không phải đến bây giờ mới được đề cập đến. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy “Tiếng nói là một thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc. chúng ta phải giữ gìn nó làm cho nó ngày càng phát triển rộng khắp”. Muốn thực hiện lời dạy đó ở trường Tiểu học cần có tổ chức, phương pháp dạy học hợp lí và tích cực nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt, rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh giúp học sinh có vốn ngôn ngữ và sử dụng thành thạo Tiếng Việt, đáp ứng nhu cầu phát triển giáo dục. Trong chương trình môn Tiếng Việt lớp 1, nội dung dạy luyện nói cho học sinh được coi như một nội dung độc lập, giúp học sinh bước đầu hình thành và rèn luyện kỹ năng nói đây là một trong những kỹ năng quan trọng của con người. Để học sinh luyện nói lưu loát, đạt hiệu quả giáo viên cần có cách tổ chức dạy học để khơi gợi, kích thích học sinh có khả năng hứng thú bộc lộ cảm xúc, ý nghĩ của mình nhằm phát huy kỹ năng nói cho các em, nhằm giúp trẻ có tính mạnh dạn, cởi mở, tự tin trong giao tiếp. Trong thực tế, học sinh đầu cấp chưa có thói quen rèn kỹ năng nói, còn nói theo người lớn. Đa số học sinh nói không thành câu, rút gọn câu nói, nói ngắc ngứ, không có sự liên kết trong bài nói, thiếu tự tin, có khi còn dùng những câu nói thiếu văn hóa, không lễ phép khi giao tiếp. Tình trạng này còn kéo dài sẽ dẫn đến các em ngại tiếp xúc, ngại giao tiếp. Khi lên các lớp trên các em sẽ có thói quen đọc thuộc câu chuyện hay một bài nói một cách máy móc. - Do biến đổi về mặt tâm lí, khi chưa đi học, trẻ nói một cách tự do không chủ định nhưng khi vào lớp 1 các em phải nói theo từng chủ đề. - Các em rụt rè, sợ hãi khi đứng trước đám đông. - Tư duy học sinh lớp 1 là tư duy trực quan, hình ảnh, tư duy cụ thể qua tranh ảnh minh họa nhưng khả năng quan sát chi tiết kém. - Bên cạnh đó người giáo viên chưa ý thức được vai trò của việc rèn luyện kĩ năng nói, nên đã quá coi trọng hai kĩ năng đọc, viết mà bỏ qua kĩ năng nói, dần dần trở thành thói quen “lướt qua”dạy kỹ năng này hoặc có dạy nhưng không thường xuyên liên tục. - Một số giáo viên chưa biết vận dụng tích hợp nội dung dạy- học kỹ năng nói với các kỹ năng còn lại (đọc, viết, nghe) vào các môn học khác. - Qua trao đổi, dự giờ đồng nghiệp, tôi nhận thấy đa số giáo viên chỉ chú trọng đến 2 kỹ năng đọc và viết, còn kỹ năng nói dường như bị xem nhẹ ít chú trọng, thậm chí còn bỏ qua. Có chăng đi nữa học sinh chỉ được học lướt qua ở phân môn kể chuyện và phần luyện nói trong thời gian rất ngắn. II.2. Thực trạng. a. Thuận lợi- khó khăn. - Thuận lợi: Đơn vị tôi đang công tác nằm ngay trung tâm thị trấn Krông Năng, được sự quan tâm hỗ trợ tích cực của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương và các ban ngành đoàn thể, được phòng Giáo dục-Đào tạo quan tâm chỉ đạo sâu sắc nên trường lớp được xây dựng, khang trang, cơ sở vật chất đầy đủ, trường lớp sạch sẽ thoáng mát, đủ ánh sángBên cạnh đó, phụ huynh học sinh cũng rất quan tâm đến việc học tập của con mình. Học sinh được học tập trong môi trường thuận lợi như vậy cho nên việc giao lưu, tiếp xúc, phát triển ngôn ngữ của học sinh cũng rất được quan tâm. - Khó khăn: Mặc dù trường nằm ngay trong trung tâm thị trấn, nhưng lớp tôi được phân công chủ nhiệm có 30 học sinh. Phần đông số học sinh nay là con, em người dân lao động và con em dân tộc Ê-đê, họ suốt ngày bận rộn với nương rẫy nên việc tiếp xúc, dạy dỗ con cái còn hạn chế, ít quan tâm đến việc rèn luyện kỹ năng nói cho các em. Phụ huynh chỉ biết rằng con, em họ đến trường là học đọc, học viết là được nhưng không nắm được con, em mình còn phải học luyện nói nữa. Cho nên cũng không quan tâm chúng nói như thế nào, chẳng cần uốn nắn làm gì. b. Thành công- hạn chế. - Thành công: Đa số học sinh vào lớp 1, đều được học qua trường Mầm non nên hầu hết các em đều có được vốn ngôn ngữ nhất định. Nội dung dạy luyện nói lớp 1 đã bám sát trình độ chuẩn và quán triệt những định hướng đổi mới mục tiêu dạy học ở Tiểu học. Nên việc dạy luyện nói cho học sinh sẽ được thuận lợi hơn. - Hạn chế: Do đặc điểm của học sinh Mầm non vùng nông thôn đã quen với cách nói tự do, nói câu rút gọn (thiếu chủ ngữ) gây cảm giác khó nghe, ít gây thiện cảm, thêm vào đó là thái độ rụt rè, ít cởi mở trong giao tiếp, không mạnh dạn khi bày tỏ ý kiến của mình, nói lúng ta lúng túng. Cho
File đính kèm:
skkn_mot_so_kinh_nghiem_hinh_thanh_va_boi_duong_ky_nang_noi.pdf