Sáng kiến kinh nghiệm rèn kĩ năng viết văn bằng lời văn của mình

3.5. Rèn kỹ năng diễn đạt cho học sinh trong văn miêu tả cảnh.

Tìm được đặc điểm tiêu biểu của cảnh sẽ tả đã là một bước quan trọng song chưa phải là đã tả cảnh. Miêu tả cảnh là dựng lại được cảnh một cách sống động, chân thực. Vậy những đặc điểm vừa tìm được ở trên sẽ diễn đạt như thế nào là một điều giáo viên rất quan tâm.

Thực tế là qua nhiều năm chấm bài văn miêu tả của HS, tôi thấy đáng buồn một điều là vốn ngôn từ của các em rất nghèo nàn, diễn đạt lủng củng, thường xảy ra hiện tượng bí từ, dùng sai nghĩa, từ, lặp từ, lặp ý . như vậy để làm bài văn của HS diễn đạt trong sáng có sức hấp dẫn chúng tôi nghĩ rằng không có cách nào khác ngoài việc trau rồi ngôn từ cho HS. Để HS tự giác làm điều này là một việc rất khó, nên để HS tự làm sau khi giáo viên đã tạo được trong lòng HS sự yêu thích ngôn từ nghệ thuật.

Ví dụ: đoạn trích miêu tả cảnh trong vườn dưới nắng chiều sau đây:

“. Chiều buông xuống, ánh mặt trời trở nên vàng sậm hơn. Ánh chiều vàng trải lên cành lá, mái nhà một màu vàng ong mon đẹp lạ, vườn cây nhà tôi cũng vậy. Giàn bầu nậm xanh tươi, lá non màu xanh nhạt, lá già thì xanh thẫm. ánh nắng chiều chiếu xuống làm giàn bầu trở thành màu xanh ngọc bích. Nhãn, bưởi, mít và các loại cây khác nữa tất cả đều xanh um tùm, nom như chiếc ô khổng lồ. Đó là mầu xanh no nắng, no gió và no. ”

Sau một vài đoạn văn như thế giáo viên phân tích những hình ảnh ngôn từ nghệ thuật sáng giá sao cho tạo được hứng khởi ở HS, kích thích các em thích tìm, viết những lời văn hay. Có lẽ là kỹ năng kỳ công nhất của thầy.

Sau khi tạo hướng thú cho HS qua cách tiếp xúc với các tư liệu chọn lọc, chúng tôi mới cho các em luyện tập diễn đạt bằng hình thức giáo viên đưa ra một loạt hình ảnh, yêu cầu HS dùng lời văn kết hợp biện pháp nghệ thuật so sánh, nhân hoá, sử dụng những từ láy gợi hình gợi âm để tập diễn đạt .

Ví dụ : Hình ảnh cây đa -> Cây đa xum xuê, um tùm như chiếc ô khổng lồ, hứng lấy nắng mưa bảo vệ cho cái giếng làng thân quen, thấp thoáng sau tán lá đa là mái đình cổ kính .

- Hình ảnh đồng cỏ -> Dọc theo cánh đồng là đồi cỏ may cứng nhọn trải bạt ngàn như một tấm thảm bạc phếch nắng mưa. Những bông cỏ may rung rinh trong gió chiều thu mát rượi như đang biểu diễn một điệu múa bale.

Ở giai đoạn luyện kỹ năng diễn đạt như thế này chúng tôi đặc biệt chú ý đến phép so sánh, nhân hóa trong các câu văn. Có thể đây là nốt luyến cho những bản nhạc ngôn từ. Tôi đã hướng cho HS luyện tập cách dùng so sánh khác nhau sao cho thật đa dạng phong phú gợi cảm, tạo ấn tượng.

Ví dụ : - Dòng sông quê em dưới đêm trăng mềm mại như một mái tóc.

- Những lá sen già khum khum chắng khác gì những chiếc thúng đựng đầy ắp nắng chiều mùa thu .

- Cây cối rì rào, lao xao gió nồm nam, lá cây lay động, lấp lánh tựa ngàn triệu con mắt lá răm sáng trưng nắng hè .

3.6. Rèn luyện kỹ năng chuyển cảnh, chuyển ý :

 Sau một vài đoạn văn như¬ thế, thầy cô phân tích những hình ảnh ngôn từ nghệ thuật sáng giá sao cho tạo đư¬ợc hứng khởi ở HS, kích thích các em thích tìm, viết những lời văn hay. Có lẽ rèn kĩ năng diễn đạt là một ph¬ương pháp đòi hỏi kỳ công nhất của thầy trò, cần phải mất một quá trình.

 Tạo được sự hứng thú cho các em xong, thầy cô mới cho các em luyện tập diễn đạt bằng hình thức ra một loạt hình ảnh, yêu cầu các em dùng lời văn kết hợp biện pháp nghệ thuật để tập diễn đạt.

 Ví dụ: - Đầu xuân, ánh nắng ban mai chưa đủ xua đi màn sương chờn vờn nhưng cành lá me tây đã xòe tay che chắn cái lạnh cho em.

 - Mỗi phòng học em đi qua, bàn ghế như còn say ngủ. Sáng dậy, bảng đen được các cậu học trò lau đi cái khuôn mặt nhăn nhó sau một đêm ngái ngủ. Gần mười ngày nghỉ tết, dàn máy vi tính buồn nhớ các cậu học trò.

 

doc 10 trang camtu 07/10/2022 7980
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm rèn kĩ năng viết văn bằng lời văn của mình", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm rèn kĩ năng viết văn bằng lời văn của mình

Sáng kiến kinh nghiệm rèn kĩ năng viết văn bằng lời văn của mình
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1. Lý do chọn đề tài.
Môn Ngữ văn ở trường phổ thông nói chung, trong trường THCS nói riêng thì về kiến thức môn văn không chỉ ở trong những bài có sẵn trong SGK qua phần Văn, Tiếng Việt hay Tập làm văn nào đó mà học sinh (HS) cần  phải có được những kĩ năng quý để làm một bài văn một cách thành thạo. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay HS đang xa rời với văn học, ngại nghĩ, ngại viết.
 	Do vậy, giúp HS biết cách xác định đúng yêu cầu của đề bài để xây dựng hướng làm bài. Hướng dẫn HS cách tìm ý cho bài văn miêu tả, rèn cho HS có kỹ năng diễn đạt, kỹ năng dựng đoạn trong văn miêu tả là một việc làm cần thiết mà mỗi người giáo viên cần trang bị cho HS của mình.
 	Việc rèn kỹ năng làm văn miêu tả là rất thiết thực cho HS. Việc trang bị cho các em có kỹ năng để viết thành thào những bài văn miêu tả sẽ góp phần vào tháo gỡ những vướng mắc, mặc cảm ngại học văn của một số HS hiện nay. Đồng thời giúp cho các em có kỹ năng xây dựng cách làm một bài văn miêu tả, tạo cho các em dần dần có tình yêu với môn văn học. Và tạo cho HS tự phát huy tính tích cực chủ động học văn nói chung và làm bài văn miêu tả nói riêng.
2. Mục đích nghiên cứu: 
Nghiên cứu vấn đề này nhằm nhận ra những điểm mạnh, điểm yếu trong việc làm văn miêu tả của HS đồng thời thấy được quá trình hướng dẫn của giáo viên. Từ đó khắc phục những hạn chế của giáo viên trong hướng dẫn HS làm văn miêu tả và phát huy những điểm mạnh của bản thân trong hướng dẫn HS làm văn miêu tả, để giúp bản thân và đồng nghiệp nâng cao tay nghề và giúp HS có kỹ năng làm văn miêu tả và yêu thích môn văn.
3. Đối tượng nghiên cứu: 
HS trong trường phổ thông, chủ yếu là THCS, đặc biệt là HS lớp 6. Ngoài ra là giáo viên hướng dẫn môn Ngữ văn, đặc biệt là giáo viên ngữ văn lớp 6.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Đây là đề tài nghiên cứu phương pháp giảng dạy văn miêu tả cho HS khối 6. Khi nghiên cứu dùng kết hợp. Linh hoạt nhiều phương pháp khác nhau như đánh giá thực tiễn; phân tích đánh giá kết quả học tập của HS; điều tra HS; thông qua các bài kiểm tra viết, nói của hS. 
          5. Giới hạn phạm vi nghiên cứu:
Đối với HS lớp 6 tại trường THCS Ngọc Lũ trong một số năm học vừa qua như năm học 2012-2013, 2013-2014 và năm học 2015-2016 tại lớp 6B. 
II. NỘI DUNG.
1. Cơ sở lý luận: 
          Văn học là một bộ môn nghệ thuật sáng tạo ngôn từ đầy giá trị. Có thể coi mỗi một tác phẩm văn học là một “viên ngọc trong cuộc sống”, được đúc kết từ thực tế cuộc sống, cuộc đời. Vậy làm thế nào cho HS mình cảm nhận được chất thơ của cuộc sống đời thường để rồi từ đó các em nói ra, viết ra những điều mà các em đã học, đã cảm nhận trong cuộc sống xung quanh thường ngày, tự các em tạo nên những tác phẩm nghệ thuật “nhỏ bé bước đầu” của mình có giá trị ? Tôi nghĩ đó là một việc làm mà mọi thầy cô giáo đang tìm cách để có hiệu quả nhất cho riêng mình, cho HS của minh.
          Nhìn nhận vấn đề một cách cụ thể hơn chúng ta thấy rằng chương trình Ngữ văn lớp 6 so với chương trình tiểu học mà các em đã làm quen và có nhiều những khái niệm còn trừu tượng. Giữa học và làm là cả một thao tác, một khoảng cách khó. Riêng làm văn, đòi hỏi các em phải có cách viết già dặn hơn, sinh động hơn và đặc biệt trong văn miêu tả cảnh phải có hình ảnh sống động, thuyết phục lòng người. Điều đó không thể đi từ lý thuyết sang thực hành ngay được, bởi tư duy của các còn là tư duy cụ thể, chưa tiếp nhận ngay được những kiến thức trừu tượng. Cảm nhận của các em còn đơn giản, cụ thể, vốn từ, vốn hiểu biết phần nhiều còn nghèo nàndo vậy mà các em chưa có nhiều vốn từ, tính hình ảnh, sáng tạo nghệ thuật trong viết văn
2. Cơ sở thực tiễn:
Thực tế các em đã quá quen với việc viết văn miêu tả bằng những văn bản mẫu mà thày cô cung cấp sẵn và qua “văn mẫu”. Đặc biệt ở bậc tiểu học, các em thường xuyên sử dụng lỗi viết theo mẫu sẵn. Cho nên việc sáng tạo đối với các em lớp 6 là việc khó khăn và ít hứng thú. Hơn nữa sự say mê đọc tư liệu của các em HS bây giờ quả là ít ỏi, vì thông tin hiện đại: hoạt hình, truyện tranh, đặc biệt là dịch vụ In-tơ-nét tràn lan cuốn hút các em, làm cho các em say mê hơn. Đặc biệt thời gian hiện nay HS THCS Ngọc Lũ có quan điểm coi môn văn là môn phụ, môn không cần thiết trong đời sống kinh tế, hơn nữa HS hiện nay đa số lười học, không say mê học, đặc biệt là các môn lĩnh vực xã hội.
Những năm qua tôi trực tiếp đứng lớp môn văn, trong đó có văn 6. Năm học 2012-2013 tôi dạy lớp 6C, năm học 2015-2016 này, tôi trực tiếp dạy lớp 6B. Trong quá trình hướng dẫn giảng dạy tôi đã nhận thấy vẫn còn có nhiều HS có hứng thú, thích học văn, trong đó có văn miêu tả.
Bản thân làm tổ trưởng chuyên môn, nên luôn phải quan tâm, để ý đến chất lượng của các môn trong tổ trong đó có môn ngữ văn, và thỉnh thoảng vẫn phải dạy thay đồng nghiệp một số giời văn trong đó có ngữ văn 6. Cho nên, việc tiếp cận với học sinh lớp 6, với ngữ văn 6 cũng thường xuyên.
Tình trạng HS trước khi đến lớp không học bài cũ, không chuẩn bị bài mới tương đối nhiều, thường xuyên. Đầu năm học có một số HS còn chưa biết viết một đoạn văn là như thế nào, khả năng đọc còn chậm, đặc biệt có một số HS viết không rõ chữ. Một số HS không hiểu cách hành văn miêu tả. Các em còn phụ thuộc nhiều vào sách tham khảo.
Đặc biệt là xã hội, cha mẹ HS đa số không có ý thức coi trọng đối với môn văn mà chỉ thiên hướng cho con em mình học các môn tự nhiên.
          Từ những cơ sở trên, tôi thiết nghĩ: Quá trình rèn kỹ năng làm văn miêu tả cho HS khối 6 là một việc làm cần thiết, chúng ta cần hướng cho các em làm và làm một cách kiên trì, lâu dài, cặn kẽ để có hiệu quả tốt nhất.
3. Các biện pháp đã tiến hành để rèn kỹ năng cho học sinh:
         3.1. Giúp HS có kỹ năng tìm hiểu đề, xác định đúng yêu cầu của đề bài.
- Bước tìm hiểu đề là cần giúp cho các em xác định được yêu cầu đề bài trên ba phương diện: Một là thể loại; hai là nội dung; ba là phạm vi phải làm. 
- Muốn xác định đề, tìm hiểu đề cho đúng và chính xác ta cần dựa vào câu từ trong đề bài để xác định được nội dung, yêu cầu của đề bài.
- Việc xác định đúng yêu cầu của đề bài sẽ giúp chúng ta làm bài đạt kết quả cao vì không bị lạc đề, sai yêu cầu đề bài.
* Ví dụ: Đề 1: Hãy miêu tả quang cảnh trường em vào một buổi sáng đẹp trời.
 Đề 2: Hãy tả lại quang cảnh trường em vào một buổi sáng. 
 Đề 3: Hãy tả lại trường em trong giờ ra chơi vào một ngày đẹp trời.
- Giáo viên giúp HS thấy cả 3 đề trên đầu có:
+ Yêu cầu về thể loại: Văn miêu tả (Hãy miêu tả; hãy tả lại)
+ Nội dung chính cần tả: Cả 3 đề đều yêu cầu là tả về quang cảnh trường em.
+ Nhưng mỗi đề lại có yêu cầu cụ thể hơn: 
Đề 1: Là quang cảnh trường em vào một buổi sáng đẹp trời; 
Đề 2: Là quang cảnh trường em vào một buổi sáng; 
Đề 3: Là cảnh trường em trong giờ ra chơi vào một ngày đẹp trời.
Trong thực tế của đề bài có nhiều đề bài trong đề đã có yêu cầu về thể loại “miêu tả”, nhưng có nhiều đề không có yêu cầu, câu từ “miêu tả” cụ thể. Nhưng qua câu chữ ở đề HS vẫn phải xác định được đó là đề bài miêu tả.
* Vd: - Quang cảnh cánh đồng quê em vào những ngày gặt rộ.
- Hình ảnh con đường làng quê em vào buổi sáng đẹp trời.
- Cảnh bình minh trên biển.
- Hình ảnh mẹ em khi em làm được việc tốt.   
 3.2. Hướng dẫn cách tìm ý, lập dàn ý cho bài văn tả cảnh:
          Khi HS đã xác định đúng yêu cầu của đề, xác định chính xác đối tượng miêu tả nhưng chắc chắn chưa thể định hình được hướng đi cho bài viết. Để giúp HS định hình được hướng đi của bài viết, tôi đã hướng dẫn HS bước tìm ý cho bài văn tả cảnh:
          - Nhất thiết phải theo một trình tự: Tìm ý bao quát không gian của cảnh chung sẽ tả, sau đó cụ thể sẽ có những cảnh nào? Cảnh như thế nào? 
- Tìm ý là xác định, định hình, đưa ra những ý cơ bản khái quát cho vấn đề cần tả theo yêu cầu của đề bài
          - Bao quát không gian cảnh được coi là một thao tác quan trọng đầu tiên của bức tranh tả cảnh, rất quan trọng trong việc định hình vị trí cảnh vật. Vậy HS cần phải nắm được cách viết phần bao quát không gian cảnh như thế nào? Thực tế khi làm bài, tôi thấy HS thường viết một cách cộc lốc, cụt lủn, có khi chỉ viết được một, hai câu cho phần tả bao quát. 
          - Để tả bao quát cảnh, trước hết phải xác định vị trí miêu tả khái quát. Thường là một vị trí cao hơn, xa cảnh trung tâm để có thể chụp được toàn cảnh miêu tả. 
Theo đề trên, các em phải giới thiệu đôi nét về trường học: Vị trí địa lý, trục đường, hướng mặt, diện tích, ranh giới trường với xung quanh...
                   Bài làm của học sinh
                     Bài  gợi ý của thầy
 Trường em nằm trên một khu đất rộng, bằng phẳng. Khi em đến, hai cánh cổng trường to lớn mở ra. Lớp học, bàn ghế những người bạn thân của tuổi học trò chờ đón chúng em.
 Trường THCS nơi em đang học là ngôi trường nằm ở thôn 4 (còn gọi là thôn Thượng), xã Ngọc Lũ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Trường nằm bên trục đường liên xã, cách Huyện lộ khoảng 0,5km về phía đông. Trường quay mặt về hướng đông nam, xung quanh trường học được bao bọc bởi hàng tường bao xây khá đẹp. Từ trên cao nhìn xuống, trường như nằm trên một tấm thảm xanh khổng lồ của cánh đồng lúa bạt ngàn suốt ngày reo vui với nắng gió
  	Quá trình tìm ý gắn với lập dàn ý là một kĩ năng cực kì quan trọng. Thực tế trong khi làm bài, điều lo buồn mà tôi đã thấy là nhiều em không lập dàn bài, do đâu? Một phần là do các em chưa thấy tầm quan trọng của dàn bài. Định ra được dàn bài, có thể các em đã thành công hơn một nửa trên các phương diện: Thời gian, trình tự, nội dung viết. Nhưng chắc chắn phần lớn nhiều em chưa biết, chưa có kĩ năng lập dàn bài.
          Vậy nên thầy cô giáo thường xuyên nói, rèn và bắt buộc kĩ năng lập dàn bài, để kĩ năng này trở thành thói quen thì không khó nhưng phải kiên trì thực hiện cho bằng được theo từng đối tượng. Các em ở mức học trung bình có thể lập dàn bài sơ lược, đại cương. Các em học khá giỏi có thể trên dàn ý đại cương mà xây dựng dàn bài chi tiết hơn nữa.
Ví dụ: Tả cây phượng ở trường em vào mùa hè (hoặc bất cứ cây nào)
Dàn bài chung văn tả cảnh
Dàn bài cụ thể
Mở bài
 ...  tình trạng này. Trước hết tôi hướng cho HS hình dung mỗi một cảnh nhỏ sẽ viết thành một đoạn văn trọn vẹn. Trong đoạn văn đó sẽ đi từ khái quát đến cụ thể, bao giờ câu đầu đoạn cũng là câu miêu tả khái quát cảnh đó.  
Sau câu tả khái quát là một loạt câu miêu tả cụ thể theo trình tự từ gần đến xa (hoặc ngược lại) theo tầm mắt. Trong quá trình miêu tả, thầy cô lưu ý cho HS trình tự miêu tả cho phù hợp với vị trí quan sát kết hợp lời văn so sánh, lời văn nhận xét, đánh giá và sự tưởng tượng phong phú. 
         Ví dụ về cách dựng đoạn:
            Cách dựng đoạn của học sinh
       Cách dựng đoạn theo gợi ý của thầy
- Ngôi trường to và đẹp quá! Chúng em có một khoản sân rộng để vui đùa, có cả ghế đá của những thầy cô và các anh chị đi trước tặng lại nhà trường để ngồi nghỉ ngơi trong giờ giải lao. Xà cừ, bằng lăng, bàng hay phượng đã đứng đó mấy chục năm rồi, đã chia xẻ buồn vui cùng bao thế hệ học trò, và chứng kiến những đổi thay của trường lớp. Những cây phượng cành lá xum xuê, khẳng khiu như thế có hàng trăm cánh tay vươn ra ôm lấy hoa và bác lá.
- Bước chân đến cổng trường, trước mắt em là tấm biển Trường Trung học cơ sở Ngọc Lũ bằng chữ màu xanh trên nền trắng trang trọng. Vào trong, dãy phòng Hội đồng, các cửa vẫn còn đóng im ỉm. Bên trên, một màn sương lờ mờ như trùm lên cảnh vật. Xung quanh là những dãy hàng cây xanh. Mỗi cây có một dáng vẻ riêng, cây nào cũng đẹp. Dưới bàn tay chăm sóc, sắp đặt của các thầy cô, hình như mỗi cây có một nét đẹp rất riêng. Lôi cuốn nhất là cây sanh, gốc to, cuối các chi, từng túm lá xòe ra trông rất ngộ nghĩnh.
 3.5. Rèn kỹ năng diễn đạt cho học sinh trong văn miêu tả cảnh.
Tìm được đặc điểm tiêu biểu của cảnh sẽ tả đã là một bước quan trọng song chưa phải là đã tả cảnh. Miêu tả cảnh là dựng lại được cảnh một cách sống động, chân thực. Vậy những đặc điểm vừa tìm được ở trên sẽ diễn đạt như thế nào là một điều giáo viên rất quan tâm.
Thực tế là qua nhiều năm chấm bài văn miêu tả của HS, tôi thấy đáng buồn một điều là vốn ngôn từ của các em rất nghèo nàn, diễn đạt lủng củng, thường xảy ra hiện tượng bí từ, dùng sai nghĩa, từ, lặp từ, lặp ý ... như vậy để làm bài văn của HS diễn đạt trong sáng có sức hấp dẫn chúng tôi nghĩ rằng không có cách nào khác ngoài việc trau rồi ngôn từ cho HS. Để HS tự giác làm điều này là một việc rất khó, nên để HS tự làm sau khi giáo viên đã tạo được trong lòng HS sự yêu thích ngôn từ nghệ thuật. 
Ví dụ: đoạn trích miêu tả cảnh trong vườn dưới nắng chiều sau đây: 
“... Chiều buông xuống, ánh mặt trời trở nên vàng sậm hơn. Ánh chiều vàng trải lên cành lá, mái nhà một màu vàng ong mon đẹp lạ, vườn cây nhà tôi cũng vậy. Giàn bầu nậm xanh tươi, lá non màu xanh nhạt, lá già thì xanh thẫm. ánh nắng chiều chiếu xuống làm giàn bầu trở thành màu xanh ngọc bích. Nhãn, bưởi, mít và các loại cây khác nữa tất cả đều xanh um tùm, nom như chiếc ô khổng lồ. Đó là mầu xanh no nắng, no gió và no... ”
Sau một vài đoạn văn như thế giáo viên phân tích những hình ảnh ngôn từ nghệ thuật sáng giá sao cho tạo được hứng khởi ở HS, kích thích các em thích tìm, viết những lời văn hay. Có lẽ là kỹ năng kỳ công nhất của thầy.
Sau khi tạo hướng thú cho HS qua cách tiếp xúc với các tư liệu chọn lọc, chúng tôi mới cho các em luyện tập diễn đạt bằng hình thức giáo viên đưa ra một loạt hình ảnh, yêu cầu HS dùng lời văn kết hợp biện pháp nghệ thuật so sánh, nhân hoá, sử dụng những từ láy gợi hình gợi âm để tập diễn đạt .
Ví dụ : Hình ảnh cây đa -> Cây đa xum xuê, um tùm như chiếc ô khổng lồ, hứng lấy nắng mưa  bảo vệ cho cái giếng làng thân quen, thấp thoáng sau tán lá đa là mái đình cổ kính ...
- Hình ảnh đồng cỏ -> Dọc theo cánh đồng là đồi cỏ may cứng nhọn trải bạt ngàn như một tấm thảm bạc phếch nắng mưa. Những bông cỏ may rung rinh trong gió chiều thu mát rượi như đang biểu diễn một điệu múa bale. 
Ở giai đoạn luyện kỹ năng diễn đạt như thế này chúng tôi đặc biệt chú ý đến phép so sánh, nhân hóa trong các câu văn. Có thể đây là nốt luyến cho những bản nhạc ngôn từ. Tôi đã hướng cho HS luyện tập cách dùng so sánh khác nhau sao cho thật đa dạng phong phú gợi cảm, tạo ấn tượng. 
Ví dụ : - Dòng sông quê em dưới đêm trăng mềm mại như một mái tóc.
- Những lá sen già khum khum chắng khác gì những chiếc thúng đựng đầy ắp nắng chiều mùa thu .
- Cây cối rì rào, lao xao gió nồm nam, lá cây lay động, lấp lánh tựa ngàn triệu con mắt lá răm sáng trưng nắng hè .
3.6. Rèn luyện kỹ năng chuyển cảnh, chuyển ý :
            Sau một vài đoạn văn như thế, thầy cô phân tích những hình ảnh ngôn từ nghệ thuật sáng giá sao cho tạo được hứng khởi ở HS, kích thích các em thích tìm, viết những lời văn hay. Có lẽ rèn kĩ năng diễn đạt là một phương pháp đòi hỏi kỳ công nhất của thầy trò, cần phải mất một quá trình.
          Tạo được sự hứng thú cho các em xong, thầy cô mới cho các em luyện tập diễn đạt bằng hình thức ra một loạt hình ảnh, yêu cầu các em dùng lời văn kết hợp biện pháp nghệ thuật để tập diễn đạt.
          Ví dụ: - Đầu xuân, ánh nắng ban mai chưa đủ xua đi màn sương chờn vờn nhưng cành lá me tây đã xòe tay che chắn cái lạnh cho em.
         - Mỗi phòng học em đi qua, bàn ghế như còn say ngủ. Sáng dậy, bảng đen được các cậu học trò lau đi cái khuôn mặt nhăn nhó sau một đêm ngái ngủ. Gần mười ngày nghỉ tết, dàn máy vi tính buồn nhớ các cậu học trò.
Cách này chúng tôi cũng cho HS luyện trong nhiều tiết học để trở thành thao tác thuần thục, nhuần nhuyễn, đồng thời cho HS kết hợp về tìm đọc tư liệu sao cho có những lời văn miêu tả sống động gợi cảm nhất.
Lời văn chuyển cảnh không nhiều nhưng có tác dụng rất lớn trong việc liên kết, liên hoàn mạch văn, nó đánh giá trình độ khéo léo của cây bút miêu tả cảnh. Chúng ta cần “mách nhỏ” cho các em một số cách chuyển cảnh sau đây: 
+ Các cảnh được nối tiếp nhau một cách tự nhiên theo mô típ liên cảnh. Vd: Chỉ một lát con đường đã dẫn em tới trường. Ngôi trường...
+ Chuyển cảnh nhờ hình ảnh trung gian. VD: Mặt trời ngoi lên khỏi núi, các bạn học sinh từ các nẻo đường đổ về ngày càng đông. 
+ Hướng chuyển cảnh theo gam màu. VD: Sáng nay, nền trời như tấm thảm xanh treo trên cao. Dưới sân trường, là một màu xanh của cây lá. Hòa trong màu xanh là màu áo trắng học trò. ..
+ Chuyển cảnh bằng cách nối âm thanh với không gian, lấy động để tả tĩnh: Ví dụ: Trên sân trường, rộn rã tiếng bước chân, tiếng nói, tiếng cười. Đột nhiên, một hồi trống vang lên, sân trường bỗng chốc vắng lặng...
    4. Hiệu quả của việc áp dụng sáng kiến vào thực tiễn.
          Quá trình thực hiện qua nhiều năm đứng lớp, tôi tin chắc rằng những gì tôi đã trình bày sẽ đem đến sự chuyển biến trong hướng dẫn làm văn miêu tả cho các em. Trước mắt là đã phá bỏ được mặc cảm của HS với môn văn trừu tượng là môn ngại viết, ngại nghĩ. 
Sau đây là một vài con số thực tế và kết quả của HS ở môn Ngữ văn lớp 6, sau khi được cung cấp các kĩ năng về phương pháp miêu tả HS đã viết bài hoàn chỉnh, và kết quả được phản ánh như sau: Năm học 2012-2013, lớp 6A tôi phụ trách có 37 HS thì kết quả đạt được là: Giỏi 7/37= 18,9%; Khá 15/37= 40,5%; TB 14/37=37,8%; Kém 1/37= 2,8%.
Năm học 2015-2016, lớp 6B tôi đang phụ trách, qua bài viết số 5 và một vài bài tập ngắn các em đã làm tôi nhận thấy cách làm bài của các em có nhiều kết quả tốt, số lượng bài viết có chất lượng cao, đạt điểm 8 trở lên tương đối nhiều tiêu biểu kể đến: Như Quỳnh, Bích Ngọc, Loan, Đức Toàn, Thu Uyên.
Khi thực hiện sáng kiến kinh nghiệm này giúp các em HS có kỹ năng làm bài văn miêu tả được nâng cao hơn. Tạo cho các em niềm say mê với môn văn, các em cảm nhận được các sự vật thiên nhiên rất gần gũi ngay trong cuộc sống đời thường, tạo được những cảm xúc chân thực với cảnh vật khi miêu tả. 
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.
1. Kết luận.
Giảng dạy và ôn tập môn ngữ văn, đặc biệt là phần văn miêu tả là một vấn đề không dễ bởi đây là mảng kiến thức rất quan trọng giúp HS vừa củng cố các kiến thức đã học, các kỹ năng làm bài mà còn gợi mở hướng cho HS lĩnh hội kiến thức để học lên THPT, để HS có kiến thức, kỹ năng để làm tốt các thể loại văn ở các lớp trên trong cấp THCS. Để thực hiện tốt đòi hỏi giáo viên, HS làm tốt một số vấn đề sau:
        	 - HS phải có khả năng tìm hiểu vấn đề, phải có vốn ngôn từ phong phú, cách sử dụng ngôn ngữ trau chuốt, diễn đạt tình cảm, rung động chân thành của mình về hình ảnh trong thực tế cuộc sống; HS phải rèn cho mình có ý thức thường xuyên quan sát các cảnh vật, sự vật, sự việc thường xuyên sảy ra, diễn ra trong cuộc sống hàng ngày.
- Giáo viên phải bồi dưỡng cho HS lòng say mê văn học, có tư tưởng, lập trường đúng đắn.
Sáng kiến đã giải quyết được những băn khoăn, đơn điệu trong quá trình lên lớp của tôi so với ngày đầu tiếp cận với văn miêu tả. Nếu sáng kiến được áp dụng sẽ phần nào đơn giản hóa, cụ thể hóa khi dạy dạng văn miêu tả. Từ đó mà có những định hướng đúng mục tiêu, xác định đúng đối tượng miêu tả và có những phương pháp cụ thể phù hợp khi giảng dạy văn miêu tả.
         2. Kiến nghị:
Với Nhà trường: Cần khuyến khích động viên giáo viên nghiên cứu, áp dụng những sáng kiến hay để đẩy mạnh việc nâng cao chất lượng chuyên môn.
Đối giáo viên: Phải luôn có ý thực tự học hỏi, trau dồi kiến thức, nâng cao trình độ chuyên môn, trao đổi kinh nghiệp với các đồng nghiệp để nâng cao hiệu quả giảng dạy.
Trên đây chỉ là một vài kinh nghiệm nhỏ bé của bản thân. Tôi rất mong sự đóng góp của các thầy cô đồng nghiệp và các ban ngành phụ trách chuyên môn để sáng kiến kinh nghiệm của tôi ngày càng được hoàn thiện hơn, có hiệu quả hơn trong những năm tiếp theo . 
          Xin chân thành cảm ơn!
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG CHẤM
Ngọc Lũ, ngày 01 tháng 03 năm 2016
Người viết
 Trần Đức Toàn
 Giáo viên THCS Ngọc Lũ
PHÒNG GIÁO DỤC ĐÀO TẠO BÌNH LỤC
TRƯỜNG THCS NGỌC LŨ
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Đề tài
“RÈN KỸ NĂNG LÀM VĂN MIÊU TẢ 
 BẰNG LỜI VĂN CỦA CHÍNH HỌC SINH 
ĐỐI VỚI HỌC SINH LỚP 6”
Năm học 2015 - 2016
Lĩnh vực (Môn): Ngữ Văn
Mã số: 09
Ngọc Lũ, tháng 3 năm 2016
Người thực hiện: Trần Đức Toàn
Chức vụ: Tổ trưởng Tổ KHXH&NV
 Ngọc Lũ, ngày 01 tháng 02 năm

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_ren_ki_nang_viet_van_bang_loi_van_cua.doc