Báo cáo biện pháp Một số biện pháp tích cực nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy tập làm văn lớp 3

Bước vào kỷ nguyên mới, đất nước ta có nhiều đổi mới, đổi mới về kinh tế, xã hội, giáo dục Sự phát triển giáo dục của nước ta tăng nhanh giúp cho những chủ nhân tương lai của đất nước luôn được phát triển toàn diện, đầy đủ về năng lực, trí tuệ, tính cách. Qua việc nắm bắt các kiến thức, tri thức khoa học ban đầu để từ đó hình thành nên những kĩ năng cần thiết của cuộc sống, hành động đúng cho bản thân .

Trong trường tiểu học, môn Tiếng Việt có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với học sinh bởi nó là môn học cung cấp cho các em những kiến thức cần thiết trong giao tiếp hằng ngày. Nó giúp các em phát triển toàn diện, hình thành ở các em những cơ sở của thế giới khoa học, góp phần rèn luyện trí thông minh, hình thành tình cảm, thói quen đạo đức tốt đẹp của con người mới.

Dạy học Tiếng Việt là dạy học tiếng mẹ đẻ. Dạy học Tiếng Việt giúp các em hình thành 4 kỹ năng cơ bản: nghe, nói, đọc, viết. Phân môn Tập làm văn trong môn Tiếng Việt hội đủ 4 kỹ năng trên.

 

docx 32 trang Thảo Ly 17/08/2023 4040
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Báo cáo biện pháp Một số biện pháp tích cực nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy tập làm văn lớp 3", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Báo cáo biện pháp Một số biện pháp tích cực nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy tập làm văn lớp 3

Báo cáo biện pháp Một số biện pháp tích cực nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy tập làm văn lớp 3
ĐẶT VẤN ĐỀ PHẦN I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Dạy tập làm văn là dạy tích hợp tất cả các phân môn Tiếng Việt. Chương trình tập làm văn lớp 3 chủ yếu rèn cho các em luyện nghe, luyện nói, luyện viết với mẫu câu rộng hơn: câu đúng ngữ pháp, biết sử dụng biện pháp tu từ, so sánh, nhân hóa, câu giàu hình ảnh. Luyện viết với số lượng câu văn tăng hơn so với lớp 2 (7- 10 câu), cần chú ý đến kết cấu đoạn văn và diễn đạt cảm xúc.
Chắc rằng mỗi giáo viên ai cũng hiểu : Phân môn Tập làm văn là một phân môn có vai trò quan trọng trong việc dạy học sinh hình thành văn bản nói và viết. Đây là một môn khó dạy trong chương trình Tiếng Việt tiểu học. Dạy phân môn Tập làm văn được tốt tức là người giáo viên đã thâm nhập cả chuỗi kiến thức từ các phân môn: tập đọc, kể chuyện, luyện từ và câu. Chính vì thế mà phân môn tập làm văn có tính chất tổng hợp, là kết quả lĩnh hội các kiến thức của môn Tiếng Việt. Trong chương trình tiểu học hiện nay, mục tiêu chính của môn Tiếng Việt là hình thành và phát triển cho học sinh các kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết. Đặc biệt ở lớp 3, phân môn tập làm văn rèn bốn kỹ năng: nói, nghe, đọc và viết. Trong giờ tập làm văn học sinh được cung cấp kiến thức về cách làm bài và làm các bài tập (nói, viết) xây dựng các loại văn bản và các bộ phận cấu thành văn bản. Bên cạnh đó học sinh còn tập kể lại được những mẫu chuyện được nghe thầy, cô kể trên lớp. Qua từng nội dung bài dạy, phân môn tập làm văn nhằm bồi dưỡng thái độ ứng xử có văn hoá, tinh thần trách nhiệm trong công việc, bồi dưỡng tình cảm lành mạnh tốt đẹp cho học sinh.
Thế nhưng với thời đại văn hóa đọc ngày càng mai một. Số lượng học sinh ham thích đọc sách ngày càng giảm. Hình ảnh bà ngồi kể chuyện cổ tích cho cháu nghe cũng dần đi vào quên lãng. Thời gian rãnh rỗi các em dành cho các hoạt động giải trí hiện đại: xem hoạt hình, chơi game. Từ đó khả năng nghe, đọc và cảm thụ văn học của các em cũng giảm do đó vốn từ của các em cũng hạn chế nên các em gặp khó khăn trong việc tìm từ để kể lại câu chuyện, nói-viết theo các chủ đề.
Để thực hiện tốt mục tiêu của môn học đòi hỏi người thầy phải biết vận dụng linh hoạt, sáng tạo các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học sao cho phù hợp với khả năng sử dụng ngôn ngữ và tâm lí lứa tuổi học sinh (HS) để giờ học diễn ra tự nhiên nhẹ nhàng và có hiệu quả. Trong giảng dạy giáo viên phải có nghệ thuật sư phạm, biết dẫn dắt, gợi mở đưa học sinh giải quyết các tình huống và thông qua việc xử lí các tình huống đó học sinh
lĩnh hội được kiến thức bài. Qua thực tế giảng dạy nhiều năm ở khối lớp 3 bản thân nhận thấy rằng học sinh chưa thực sự yêu thích môn tập làm văn chẳng phải vì đây là môn học không có sức cuốn hút, không tạo sự đam mê yêu thích cho học sinh mà là giáo viên chưa thổi được hồn vào trong các tiết tập làm văn khi giảng dạy học sinh. Từ những băn khoăn trăn trở: Tại sao học sinh mình không thích học tiết làm tập làm văn? Khả năng nghe, nói, kể, viết của các em ngày càng hạn chế? Tôi đã nhiều lần học hỏi, tìm tòi, tham khảo, thử nghiệm và qua dự giờ thăm lớp của anh chị em giáo viên đặc biệt là khi dự giờ tiếp tập làm văn lớp 3 trong trường tiểu học( kể cả dự giờ giáo viên giỏi) tôi thấy có nhiều chỗ băn khoăn, trăn trở. Giáo viên chưa biết cách khai thác dẫn dắt học sinh tìm tòi kiến thức nhất là với hai dạng bài: “Nghe - Kể lại chuyện” và “Kể hay nói, viết về một chủ đề” lại càng băn khoăn hơn. Xuất phát từ vấn đề đó nên tôi mạnh dạn viết kinh nghiệm : "Một số biện pháp tích cực nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy tập làm văn lớp 3 "
Đây cũng là tên sáng kiến kinh nghiệm mà tôi muốn chia sẻ.
CƠ SỞ LÍ LUẬN:
Bước vào kỷ nguyên mới, đất nước ta có nhiều đổi mới, đổi mới về kinh tế, xã hội, giáo dục Sự phát triển giáo dục của nước ta tăng nhanh giúp cho những chủ nhân tương lai của đất nước luôn được phát triển toàn diện, đầy đủ về năng lực, trí tuệ, tính cách. Qua việc nắm bắt các kiến thức, tri thức khoa học ban đầu để từ đó hình thành nên những kĩ năng cần thiết của cuộc sống, hành động đúng cho bản thân .
Trong trường tiểu học, môn Tiếng Việt có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với học sinh bởi nó là môn học cung cấp cho các em những kiến thức cần thiết trong giao tiếp hằng ngày. Nó giúp các em phát triển toàn diện, hình thành ở các em những cơ sở của thế giới khoa học, góp phần rèn luyện trí thông minh, hình thành tình cảm, thói quen đạo đức tốt đẹp của con người mới.
Dạy học Tiếng Việt là dạy học tiếng mẹ đẻ. Dạy học Tiếng Việt giúp các em hình thành 4 kỹ năng cơ bản: nghe, nói, đọc, viết. Phân môn Tập làm văn trong môn Tiếng Việt hội đủ 4 kỹ năng trên.
CƠ SỞ THỰC TIỄN:
Quá trình dạy học là một quá trình tư duy sáng tạo – người giáo viên là một kĩ sư của tâm hồn, hơn nữa còn là một nhà làm nghệ thuật. Và việc dạy học ngày nay luôn dựa trên cơ sở phát huy tính tích cực chủ động của học sinh. Chính vì thế nó đòi hỏi người giáo viên phải luôn có sự sáng tạo, tự cải tiến phương pháp dạy học của mình nhằm mục
đích nâng cao chất lượng dạy học. Mỗi môn học ở Tiểu học đều góp phần hình thành và phát triển nhân cách của trẻ, cung cấp cho trẻ những kiến thức cần thiết.
Lứa tuổi các em là lứa tuổi thích được khen tặng, được biểu dương.
Giáo viên có thể tự lên kế hoạch dạy học, điều chỉnh nội dung chương trình theo trình độ, khả năng của học sinh lớp mình phụ trách.
Một số đề bài thay vì chỉ dạy trong thời gian nửa tiết học nay đã được dạy trọn trong một tiết học.
Học sinh lớp 3 vốn ngôn ngữ của các em chưa nhiều: các em còn mải chơi nhiều
hơn học.
Các em còn ngại kể chuyện vì chưa nhớ các tình tiết, nội dung của câu chuyện;
nói về đề tài nào đó cho qua loa, cho xong vì các em chưa tìm ra được các tữ ngữ liên quan đến đề tài.
Giáo viên chưa khen tặng, uốn nắn các em kịp thời.
Giáo viên chưa khơi gợi được tính tò mò, ham học hỏi, sáng tạo văn học nơi các
em.
Việc tổ chức dạy các giờ tập làm văn (được coi là dạy mẫu ) ở các trường tiểu
học chưa nhiều nên giáo viên chưa có cơ hội để học tâp lẫn nhau nhằm nâng cao năng lực giảng dạy.
Chính vì những lý do trên nên việc học văn ở lớp Ba còn hạn chế. Trong tiết
“Nghe - kể lại chuyện” nhiều em còn chưa kể lại được câu chuyện mặc dầu câu chuyện đó ngắn, tình tiết ít. Khi “Kể hay nói, viết về một chủ đề” nào đó theo các gợi ý ở SGK thì các em diễn đạt còn lúng túng nhất là những học sinh yếu không nói (viết) được bài.
Phân môn Tập làm văn ở Tiểu học có nhiệm vụ rất quan trọng là rèn kĩ năng nói và viết. Do đó khi đứng lớp tôi luôn chú ý đến việc rèn luyện kĩ năng làm Tập làm văn cho học sinh lớp tôi phụ trách.
MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI:
Việc dạy cho học sinh nắm được cách nghe, kể lại được nội dung câu chuyện và kể hay nói, viết về một chủ đề có hiệu quả trong phân môn Tập làm văn ở lớp Ba là rất quan trọng. Dạy tốt vấn đề này giúp học sinh rèn luyện các kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết một cách linh hoạt để biết kể lại câu chuyện đã nghe hay làm bài văn kể hay nói, viết về một chủ đề cho trước có hiệu quả. Giúp học sinh mạnh dạn, tự tin và ham thích học văn. Vậy mục đích nghiên cứu trong đề tài này tập trung vào các nội dung chủ yếu sau:
Tìm hiểu các bài tập về nghe, kể lại chuyện; Kể hay nói, viết về một chủ đề có trong chương trình tập làm văn lớp 3.
Thực trạng việc dạy của giáo viên và việc học của hoc sinh về phân môn Tập làm văn lớp 3 ở trường tiểu học hiện nay.
Nghiên cứu tìm ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giờ học tập làm văn ở lớp 3 với dạng bài: Nghe- kể lại chuyện; Kể hay nói, viết về một chủ đề.
Dạy Tiếng Việt ở tiểu học nói chung và dạy Tập làm văn nói riêng không phải là dạy lý thuyết ngôn ngữ, mà đó là việc dạy hoạt động ngôn ngữ. Bởi thế các yếu tố của tình huống giao tiếp rất được quan tâm. Nếu như trong dạy câu, tình huống giao tiếp mới chỉ được chú ý một phần thì trong dạy Tập làm văn, tình huống giao tiếp được chú ý một cách toàn diện và đầy đủ hơn, các tình huống hiện ra cũng cụ thể và rõ ràng hơn. Nếu như trong dạy câu, ta có thể lướt nhanh qua những tình huống giao tiếp, thì ngược lại, trong làm văn không thể không đề cập tình huống. Bài văn viết ra bao giờ cũng hướng tới đối tượng người đọc, người nghe cụ thể với những nội dung và mục đích cụ thể. Không thể có một bài văn viết chung chung, không rõ đối tượng, không rõ nội dung và mục đích giao tiếp. Nếu như trong việc dạy câu, việc đánh giá câu đúng, câu sai đã vừa cần phải chú ý đến quy tắc ngôn ngữ, vừa cần phải chú ý đến quy tắc giao tiếp, thì ở bậc bài văn, bậc văn bản lại càng cần phải như thế. Lúc này, việc đánh giá toàn bộ chất lượng bài văn viết ra là ở chỗ có sự phù hợp với giao tiếp hay không, chứ không phải ở một vài điểm đúng sai mang tính chất bộ phận trong từ, trong câu. Những bài văn có sự phù hợp cao với đối tượng, nội dung và mục đích giao tiếp là những bài văn tốt.
Bởi thế, việc dạy Tập làm văn cho học sinh cần phải chú ý tới việc dạy các em nói, viết đúng quy tắc giao tiếp, đúng nghi thức lời nói, nghĩa là phải chú ý đầy đủ tới những yếu tố ngoài ngôn ngữ nhưng lại để lại dấu ấn đậm nét trong ngôn ngữ.
IV . NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu sách giáo khoa, sách giáo viên, vở bài tập của môn Tiếng Việt lớp 3
để
tìm hiểu nội dung, các dạng bài tập về phân môn Tập làm văn lớp 3 ở trường tiểu học hiện nay.
Tìm hiểu thực trạng dạy và học phân môn tập làm văn lớp 3 trong trường tiểu học, những khó khăn vướng mắc của giáo viên và học sinh.
Nghiên cứu và tham khảo các sách nâng cao, các tài liệu có liên quan như: Tạp chí Thế giới trong ta, các chuyên đề về môn Tiếng việt ở tiểu học
Tham khảo ý kiến đồng nghiệp và những người có tâm huyết với sự nghiệp trồng
người.
V. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đề tài này tôi đã nghiên cứu và áp dụng qua thực tế giảng dạy tại các lớp khối 3 nơi tôi đang công tác hiện nay.
VI . PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trong qua trình nghiên cứu, tôi đã áp dụng một số phương pháp sau: 1 . Phương pháp nghiên cứu tài liệu, lí luận.
2 . Phương pháp phân tích, tổng hợp.
Phương pháp điều tra, khảo sát
Phương pháp luyện tập, thực hành
Phương pháp thống kê.
Phương pháp trao đổi, tranh luận.
Trong các phương pháp trên, khi nghiên cứ ... g kịp thời giúp các em thích thú hơn trong giờ học.
Ý NGHĨA
PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
KẾT LUẬN
Việc tìm hiểu những khó khăn của học sinh và tìm ra được hướng để khắc phục những vướng mắc khi lĩnh hội tri thức mới là một điều không thể thiếu trong quá trình dạy học. Với việc tìm hiểu thực trạng dạy và học phân môn Tập làm văn lớp 3 ở trường tiểu học hiện nay với dạng bài: “ Nghe - kể lại chuyện”; “ Kể hay nói, viết về một chủ đề” và đưa ra được các biện pháp khắc phục đã đem lại cho chúng tôi một kết quả học tập của học sinh rất khả quan. Với giáo viên, họ đã có trong tay những giải pháp khi dạy dạng bài này và không còn lúng túng khi giảng dạy cho học sinh. Cũng thông qua đề tài này mà tổ chuyên môn trường chúng tôi đã có những buổi họp chuyên môn hữu ích, họ không chỉ sôi nổi thảo luận khi dạy về phân môn tập làm văn lớp 3 nói riêng này mà họ còn mạnh dạn đề ra các biện pháp dạy học phù hợp với các phân môn khác.
Tìm hiểu những biện pháp phù hợp với từng nội dung bài học là yêu cầu không thể thiếu đối với mỗi giáo viên khi lên lớp. Với đề tài này tôi mong góp một phần nhỏ bé vào trong kho tàng kinh nghiêm giảng dạy tập làm văn trong môn Tiếng Việt lớp 3 nói riêng và trong cả bậc tiểu học nói chung.
Đứng trước vai trò, vị trí, tầm quan trọng của việc dạy Tập làm văn cho HS Tiểu học nói chung và đối với HS lớp ba nói riêng, tôi thấy việc hướng dẫn cho các em nắm được phương pháp học phân môn Tập làm văn là hết sức cần thiết.
Học văn không chỉ là học những tri thức về ngôn ngữ, về lý luận mà quan trọng hơn là bồi dưỡng và phát triển năng lực văn ở mỗi người. Năng lực văn này bao gồm năng lực tư duy và năng lực cảm xúc; năng lực thể hiện, tức khả năng nói, viết, diễn đạt cảm nghĩ của mình trong một văn bản hay trong một lời nhắn.
Học văn vừa là học, vừa là sống. Trong cái sống đó, tri thức, điều học được là cần, nhưng chưa phải là cái quan trọng nhất.
Dạy Tập làm văn mà chỉ thiên về cung cấp những kiến thức thì phân môn Tập làm văn sẽ trở nên nghèo nàn và buồn tẻ biết bao nhiêu.
Một trong những mục đích quan trọng của việc dạy Tiếng Việt cho HS trong nhà trường là giúp cho các em hiểu và sử dụng được Tiếng Việt , một phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của chúng ta. Hơn nữa, việc dạy học Tiếng Việt không phải chỉ đơn thuần nhằm cung cấp cho HS một số những khái niệm hay quy tắc ngôn ngữ, mà mục
đích cuối cùng cần phải đạt đến lại là việc giúp các em có được những kĩ năng, kĩ xảo trong việc sử dụng ngôn ngữ. HS không thể chỉ biết những lý thuyết về hệ thống ngữ pháp Tiếng Việt, biết một khối lượng lớn các từ ngữ Tiếng Việt, mà lại không có khả năng sử dụng những hiểu biết ấy vào giao tiếp. Dạy Tiếng Việt cho các em, đặc biệt ở các lớp đầu bậc Tiểu học, không phải chủ yếu là dạy “kĩ thuật ” ngôn ngữ mà là dạy “kĩ thuật ” giao tiếp. Việc dạy tiếng gắn liền với hoạt động giao tiếp là con đường ngắn nhất, có hiệu quả nhất giúp HS nắm được các quy tắc sử dụng ấy.Vì thế, có thể nói dạy tiếng chính là việc dạy cho các em cách tổ chức giao tiếp bằng ngôn ngữ.
Mỗi bài “Tập làm văn ” là một dịp cho các em có thêm kiến thức và kĩ năng chủ động tham dự vào cuộc sống văn hoá thường ngày. Vì vậy, GV cần hết sức linh hoạt để làm cho tiết “Tập làm văn ” trở thành một tiết học hứng thú và bổ ích. Điều quan trọng là cần căn cứ vào nội dung, tính chất của từng bài, căn cứ vào trình độ HS và năng lực, sở trường của GV; căn cứ vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của từng trường, từng lớp mà lựa chọn, sử dụng kết hợp các phương pháp và hình thức dạy học một cách hợp lý, đúng mức.
Nếu người giáo viên biết vận dụng các biện pháp trên để tiến hành dạy trong giờ học, tôi nghĩ chất lượng giáo dục , hiệu quả quả giáo dục của môn Tiếng Việt cụ thể là phân môn tập làm văn ngày càng tăng cao một cách rõ rệt. Các biện pháp đó tôi đã thực hiện trong giảng dạy, tôi thấy học sinh tiến bộ hẳn trong năm học. Chắc chắn rằng giải pháp đưa ra còn nhiều hạn chế, thiếu sót do đúc kết từ kinh nghiệm giảng dạy của cá nhân. Tôi rất mong được sự đóng góp ý kiến của Hội đồng chấm sáng kiến kinh nghiệm.
KIẾN NGHỊ
Đối với giáo viên: Trong quá trình dạy học nói chung và dạy học môn Tiếng việt ở Tiểu học nói riêng, giáo viên cần có ý thức nghiên cứu, tìm hiểu, vận dụng nhiều biện pháp, thủ thuật để nâng cao hiệu quả học tập cho học sinh.
Đối với Tổ chuyên môn của nhà trường cần có các buổi sinh hoạt chuyên môn có chất lượng để giáo viên có thể học hỏi, trao đổi kinh nghiệm, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
Song tôi rất mong muốn các bạn đồng nghiệp tìm tòi, sáng tạo ra những kinh nghiệm quý báu để góp phần nâng cao chất lượng giờ dạy.
Trên đây là một kinh nghiệm nhỏ mà tôi đã thử nghiệm thành công tại đơn vị để góp phần nâng cao chất lượng dạy, học phân môn Tập làm văn lớp Ba. Rất mong nhận
được sự góp ý của thầy cô và bạn bè đồng nghiệp góp ý để tôi hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ giảng dạy.
Xin trân trọng cảm ơn!
Minh Thạnh, ngày 25 tháng 2 năm 2019
Người viết Võ Thị Ngọc Nga
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Sách Tiếng Việt 3 tập 1, 2 – Bộ GD - ĐT – Nhà xuất bản giáo dục – 2004;
Sách Tiếng Việt 3 tập 1, 2 – Bộ GD - ĐT – Nhà xuất bản giáo dục – 2004;
Để dạy học tốt Tiếng Việt 3 – PGS.TS. Nguyễn Trí (chủ biên) TS. Dương Thị Hương- TH.S.Thảo Nguyên - Nhà xuất bản giáo dục – 2007;
Trò chơi thực hành Tiếng Việt lớp 3 tập 1, 2 – Vũ Khắc Tuân – Nhà xuất bản giáo dục
– 2007;
Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng các môn học ở tiểu học – Bộ GD - ĐT – Nhà xuất bản giáo dục – 2011;
Nhận xét của nhà trường
.............................................................................................................................................
.............................................................................................................................................
.............................................................................................................................................
.............................................................................................................................................
.............................................................................................................................................
.............................................................................................................................................
.............................................................................................................................................
.............................................................................................................................................
Nhận xét của phòng Giáo dục- Đào tạo
.............................................................................................................................................
.............................................................................................................................................
.............................................................................................................................................
.............................................................................................................................................
.............................................................................................................................................
.............................................................................................................................................
.............................................................................................................................................
.............................................................................................................................................
.............................................................................................................................................
Nhận xét của Sở Giáo dục- Đào tạo
.............................................................................................................................................
.............................................................................................................................................
.............................................................................................................................................
.............................................................................................................................................
.............................................................................................................................................
.............................................................................................................................................
.............................................................................................................................................
.............................................................................................................................................
.............................................................................................................................................
.............................................................................................................................................
MỤC LỤC
Néi dung
Trang
A. Đặt vấn đề
Phần I. Lí do chọn đề tài
1
I. Cơ sở lí luận
2
II.Cơ sở thực tiễn
2
III.Mục đích nghiên cứu đề tài
3
IV.Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
4
V. Phạm vi nghiên cứu đề tài
5
VI.Phương pháp nghiên cứu
5
B. Nội dung
Phần II. Giải quyết vấn đề
I. Thực trạng việc dạy Tập làm văn ở trường tiểu học hiện nay
1. Thực trạng
6
2. Nguyên nhân
6
II.Nội dung Tập làm văn
7
III. Một số biện pháp
8
C. Kết luận
I.Kết quả đạt được
25
II. Bài học kinh nghiệm
26
D. Ý nghĩa
Phần III. Kết luận và kiến nghị
I. Kiến luận
27
II. Kiến nghị
28

File đính kèm:

  • docxbao_cao_bien_phap_mot_so_bien_phap_tich_cuc_nham_nang_cao_hi.docx
  • pdfMot_so_bie_phap_nham_nang_cao_hieu_qua_day_mon_Tap_lam_van.pdf