SKKN Vận dụng phương pháp phản hồi người mẹ trong giờ học vần cho học sinh khiếm thính Lớp 1A

Học vần là một phân môn rất quan trọng trong chương trình học của

lớp 1. Muốn đọc được chữ đòi hỏi các em phải biết nhận diện vần, biết

cách ráp vần, dấu thanh để tạo tiếng, từ. Hạn chế về thính lực đã gây cho

trẻ khiếm thính rất nhều khó khăn trong việc nhận diện âm thanh, lời nói,

cách phát âm vần, tiếng, từ, câu. Hiện nay, tại Trung tâm Nuôi Dạy Trẻ

Khuyết tật Đồng Nai thực hiện chương trình lớp 1 trong 2 năm; năm học

thứ nhất các em sẽ được học phần vần gồm có 3 dạng cơ bản: làm quen với

âm và chữ, dạy - học âm vần mới, ôn tập âm và vần; nửa học kì 1 của năm

học thứ hai các em sẽ học phần vần tiếp theo của sách tập 2.

Phương pháp phản hồi người mẹ được giáo viên sử dụng phổ biến ở

các trường dạy trẻ khiếm thính nhưng chủ yếu trong giờ học hội thoại, chưa

được sử dụng nhiều trong quá trình dạy các môn học khác. Vận dụng

phương pháp phản hồi người mẹ trong dạy học giúp trẻ nhận thức được giá

trị của công cụ ngôn ngữ; tăng cường nhu cầu giao tiếp của trẻ; phát triển

kỹ năng chú ý lắng nghe lẫn nhau, nói theo kinh nghiệm, hiểu được điều

vừa nói. Thực tế dạy học cho thấy, các kỹ năng đó không những giúp trẻ

khiếm thính khắc phục những hạn chế trong giao tiếp mà còn giúp các em

lĩnh hội kiến thức một cách tích cực, chủ động. Vì vậy, tôi đã mạnh dạn

“Vận dụng phương pháp phản hồi người mẹ trong giờ học vần cho học

sinh khiếm thính lớp 1A” nhằm giúp học sinh khiếm thính hình thành và

phát triển một số kỹ năng học tập, kỹ năng giao tiếp để các em học tốt môn

Tiếng Việt cũng như các môn học khác.

pdf 12 trang Huy Quân 01/04/2025 260
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Vận dụng phương pháp phản hồi người mẹ trong giờ học vần cho học sinh khiếm thính Lớp 1A", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Vận dụng phương pháp phản hồi người mẹ trong giờ học vần cho học sinh khiếm thính Lớp 1A

SKKN Vận dụng phương pháp phản hồi người mẹ trong giờ học vần cho học sinh khiếm thính Lớp 1A
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI 
TRUNG TÂM NUÔI DẠY TRẺ KHUYẾT TẬT ĐỒNG NAI 
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 
VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP 
PHẢN HỒI NGƯỜI MẸ TRONG 
GIỜ HỌC VẦN CHO HỌC SINH 
KHIẾM THÍNH LỚP 1A 
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI 
 Một trong những mục đích học tập của trẻ khiếm thính khi đến trường 
là học tiếng Việt. Môn Tiếng Việt giúp cho học sinh khiếm thính dần hình 
thành các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết vốn rất hạn chế trước khi trẻ tới 
trường. Khi mới vào lớp 1 trẻ khiếm thính rất hạn chế về vốn từ; thiếu kỹ 
năng dùng ngôn ngữ do ít được lặp đi lặp lại, do giới hạn của trí nhớ, trẻ 
không được can thiệp sớm, thiếu kinh nghiệm về ngôn ngữ. Vì thế trẻ phải 
đồng thời ghi nhớ từ nói, từ viết, ý nghĩa của từ cũng như cách dùng từ, câu 
nên thời gian học tiếng Việt của trẻ khiếm thính chậm hơn và khó khăn hơn 
so với trẻ bình thường. 
Học vần là một phân môn rất quan trọng trong chương trình học của 
lớp 1. Muốn đọc được chữ đòi hỏi các em phải biết nhận diện vần, biết 
cách ráp vần, dấu thanh để tạo tiếng, từ. Hạn chế về thính lực đã gây cho 
trẻ khiếm thính rất nhều khó khăn trong việc nhận diện âm thanh, lời nói, 
cách phát âm vần, tiếng, từ, câu. Hiện nay, tại Trung tâm Nuôi Dạy Trẻ 
Khuyết tật Đồng Nai thực hiện chương trình lớp 1 trong 2 năm; năm học 
thứ nhất các em sẽ được học phần vần gồm có 3 dạng cơ bản: làm quen với 
âm và chữ, dạy - học âm vần mới, ôn tập âm và vần; nửa học kì 1 của năm 
học thứ hai các em sẽ học phần vần tiếp theo của sách tập 2. 
Phương pháp phản hồi người mẹ được giáo viên sử dụng phổ biến ở 
các trường dạy trẻ khiếm thính nhưng chủ yếu trong giờ học hội thoại, chưa 
được sử dụng nhiều trong quá trình dạy các môn học khác. Vận dụng 
phương pháp phản hồi người mẹ trong dạy học giúp trẻ nhận thức được giá 
trị của công cụ ngôn ngữ; tăng cường nhu cầu giao tiếp của trẻ; phát triển 
kỹ năng chú ý lắng nghe lẫn nhau, nói theo kinh nghiệm, hiểu được điều 
vừa nói. Thực tế dạy học cho thấy, các kỹ năng đó không những giúp trẻ 
khiếm thính khắc phục những hạn chế trong giao tiếp mà còn giúp các em 
lĩnh hội kiến thức một cách tích cực, chủ động. Vì vậy, tôi đã mạnh dạn 
“Vận dụng phương pháp phản hồi người mẹ trong giờ học vần cho học 
sinh khiếm thính lớp 1A” nhằm giúp học sinh khiếm thính hình thành và 
phát triển một số kỹ năng học tập, kỹ năng giao tiếp để các em học tốt môn 
Tiếng Việt cũng như các môn học khác. 
II. TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI 
1. Cơ sở lý luận 
1.1 Thế nào là trẻ khiếm thính? 
 Trẻ khiếm thính là trẻ bị tổn hại cơ quan thính giác ở các mức độ khác 
nhau. Do cơ quan thính giác bị tổn hại nên trẻ không tri giác được thế giới 
âm thanh, không nghe được tiếng nói. Vì thế, không tự hình thành được 
ngôn ngữ. Ngày nay, để giảm sự mặc cảm ở trẻ điếc, để cộng đồng xã hội 
hiểu và gần gũi hơn đối với đối tượng khuyết tật này, người ta thường dùng 
 thuật ngữ trẻ khuyết tật thính giác, hay trẻ khiếm thính, trẻ có khó khăn về 
nghe. 
 1.2 Ảnh hưởng của khuyết tật thính giác đến sự phát triển ngôn ngữ 
- Thính giác đóng vai trò cực kì quan trọng trong quá trình hình thành và 
phát triển ngôn ngữ ở trẻ em. Đối với trẻ khiếm thính, hậu quả không thể 
tránh khỏi là chậm phát triển về ngôn ngữ và đặc biệt là ngôn ngữ nói. 
- Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ theo mức độ điếc: 
+ Trẻ điếc nhẹ (mất từ 20 đến 40 dB): Trẻ không nghe hoặc không nghe rõ 
nên tiếng nói thường bị mất hoặc nói sai một số phụ âm cao. Tuy nhiên 
tiếng nói của trẻ vẫn có thể tự phát triển. 
+ Trẻ điếc vừa (mất từ 41 đến 70 dB): Trẻ có thể nói ngọng nhiều và nói 
những câu không đúng ngữ pháp. 
+ Trẻ điếc nặng (mất từ 71 đến 90 dB): Trẻ bị mất tiếng nói hoặc rất chậm 
phát triển ngay từ nhỏ, tiếng nói của trẻ khó nghe và không có thanh điệu. 
+ Trẻ điếc sâu (mất từ trên 90 dB): Tiếp thu tiếng nói chủ yếu bằng cách 
nhìn hình miệng, không dùng thính giác; mất khả năng giao tiếp bằng tiếng 
nói nên tiếng nói và ngôn ngữ không thể tự phát triển được. 
1.3 Học âm – vần đối với học sinh khiếm thính 
- Làm quen với âm và chữ: yêu cầu cơ bản là học sinh đọc được âm, thanh 
và viết được chữ ghi âm, dấu ghi thanh của bài kế trước; học sinh làm quen 
với nề nếp học tập, mạnh dạn tự tin trong môi trường học tập mới. 
- Dạy - học âm, vần: yêu cầu cơ bản là học sinh đọc được âm, vần và viết 
được chữ ghi âm, vần; đọc và viết được tiếng, từ ứng dụng; đọc được câu 
ứng dụng. 
- Ở phần trọng tâm của bài làm quen với âm và chữ, học sinh thực hiện đạt 
được mục tiêu cơ bản. Tuy nhiên ở dạng bài dạy âm - vần, trẻ khiếm thính 
gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình phát âm, thể hiện rõ ràng nhất khi 
trẻ đánh vần. Vì thế, giáo viên chỉ cần cung cấp cho học sinh nắm được cấu 
tạo của vần và đọc được vần bằng hình miệng, đọc trơn tiếng có vần mới 
nên bỏ qua giai đoạn đánh vần. 
1.4 Phương pháp phản hồi người mẹ 
 Phương pháp phản hồi người mẹ do linh mục Van Uden ở Viện dạy 
trẻ điếc Sint.Michielsgesrel – Hà Lan nghiên cứu và phổ biến năm 1970. 
Tên gọi “Người mẹ”: đây là cách mà một người mẹ giúp đứa con nghe 
được bình thường của bà nghe và nói được tiếng mẹ đẻ cách suôn sẻ. 
“Phản hồi”: ngay sau khi trẻ nói được một cách tương đối trôi chảy, đứa trẻ 
được khuyến khích nhìn lại, nghĩ lại cấu trúc ngôn ngữ mà trẻ đang dùng. 
 Phương pháp này chú trọng đến sự nhấn nhá và lặp lại trong một thời 
gian dài, đây là sự bù trừ thích hợp cho những khó khăn mà trẻ điếc sâu 
phải gánh chịu. Thêm vào đó, phương pháp này sử dụng hội thoại như một 
nền tảng của sự phát triển giao tiếp. Vận dụng phương pháp phản hồi người 
mẹ trong dạy học người giáo viên đóng vai trò quan trọng như vai trò của 
người mẹ trong sự hồi đáp, dẫn dắt cuộc trò chuyện tự nhiên với trẻ con. 
 Phương pháp phản hồi người mẹ được thực hiện theo bảy bước: chờ đợi, 
nắm bắt và làm rõ ý tưởng, cung cấp ngôn ngữ và làm mẫu, yêu cầu trẻ thứ 
nhất lặp lại, những trẻ khác lặp lại, viết bảng, liên hệ ý – từ. 
2. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài 
 2.1. Nội dung 
 Để thực hiện một giờ học thực sự có hiệu quả, trước hết giáo viên cần 
đầu tư chuẩn bị cho một giờ học về đồ dùng trực quan, về việc lựa chọn 
hình thức phương pháp dạy học, sắp xếp chỗ ngồi cho học sinh, đeo máy và 
kiểm tra máy trợ thính cho học sinh; tiếp đến giáo viên vận dụng phương 
pháp phản hồi người mẹ trong những hoạt động chính là giới thiệu từ khóa, 
từ ứng dụng; luyện đọc câu ứng dụng; luyện nói. 
 2.2. Các biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài 
 Công tác chuẩn bị trong một giờ học vần 
- Đồ dùng trực quan phục vụ cho giờ học: Do giảm sút hoặc mất khả năng 
thính giác nên ở học sinh khiếm thính, thị giác được bù trừ và trở nên thành 
phần chủ yếu, chủ đạo trong việc nhận thức thế giới xung quanh. Nên đồ 
dùng trực quan không thể thiếu trong giờ học, nhờ có đồ dùng trực quan 
mới thu hút được sự chú ý của học sinh giúp học sinh thích học và dễ dàng 
tiếp thu bài. Đồ dùng trực quan phải được làm to rõ đẹp, chính xác để hấp 
dẫn học sinh có thể là: vật thật, tranh ảnh, thẻ từ, thẻ chữ, mô hình, rối 
minh họa cho từ khóa, từ ứng dụng, câu ứng dụng và các chủ đề luyện nói. 
- Lựa chọn hình thức, phương pháp dạy học phù hợp: Học sinh khiếm thính 
ở nhiều mức độ khác nhau, nhiều loại khác nhau. Cho nên khi dạy học, việc 
lựa chọn nội dung và định mức độ yêu cầu cần căn cứ vào khả năng và nhu 
cầu của từng học sinh. Các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học cần 
được vận dụng một cách linh hoạt trong mỗi bài học, mỗi tiết học nhằm 
khơi dậy sự tự tin và hứng thú học tập cho học sinh, mang lại hiệu quả thiết 
thực. 
+ Để dạy tiếng Việt một cách hiệu quả, cần sử dụng những phương pháp 
dạy học đặc thù của việc dạy tiếng: phương pháp phân tích ngôn ngữ, 
phương pháp giao tiếp, phương pháp luyện tập theo mẫu. 
+ Kết hợp với các phương pháp dạy trẻ khiếm thính: phương pháp bắt 
chước, phương pháp phương pháp phản hồi người mẹ, phương pháp dạy 
phát âm, phương pháp luyện nghe, giao tiếp bằng chữ cái ngón tay và thủ 
ngữ điệu bộ. 
 - Sắp xếp chỗ ngồi hợp lí: Sắp xếp học sinh ngồi học theo hình vòng cung 
để học sinh quan sát được lẫn nhau, khoảng cách giữa giáo viên với học 
sinh từ 1m đến 1,5m. Học sinh có khả năng tập trung chú ý kém nên cho 
ngồi ở đáy vòng cung trực diện với giáo viên sẽ dễ quan sát giáo viên nói 
cũng như các bạn trong lớp nói. 
- Đeo máy và kiểm tra máy trợ thính cho học sinh: Cách kiểm tra máy dễ 
nhất là đặt núm tai gần micro khi máy đã mở, nếu có tiếng rít thì có nghĩa 
là máy đang hoạt động. Sau đó giáo viên đeo máy cho học sinh, kiểm tra 
 xem trẻ có phản ứng với âm thanh hay không khi đeo máy, bằng cách thức 
là yêu cầu học sinh giơ tay khi nghe giáo viên đứng phía sau vỗ tay hoặc 
nói /ba/. 
 Tiến hành vận dụng phương pháp phản hồi người mẹ trong giờ 
học vần 
 Các kỹ năng cần rèn cho học sinh trong phân môn Học vần là đọc 
âm/vần mới, đọc tiếng/từ ngữ mới, đọc từ ngữ ứng dụng và bài đọc ứng 
dụng; tập viết chữ ghi âm, vần, tiếng mới; luyện nghe – nói theo chủ đề. 
Mặt khác học sinh khiếm thính lớp1 cần được hình thành và rèn luyện một 
số kỹ năng cần thiết như kỹ năng lắng nghe người khác nói, nói xong chờ 
phản ứng của người khác; nói ra ý nghĩ của mình; nhìn và nghe người khác 
nói; nhận xét người khác nói đúng hay sai; lặp lại lời người khác nói; nói 
câu có ngữ điệu, tiết điệu; sử dụng từ ngữ đúng ngữ cảnh. Do đó giáo viên 
cần vận dụng phương pháp phản hồi người mẹ một cách linh hoạt kết hợp 
với các phương pháp dạy học vần để có được giờ học sinh động và đạt 
được những mục tiêu của phân môn Học vần. Phương pháp phản hồi người 
mẹ được thực hiện theo bảy bước cụ thể: 
Bước 1: Chờ đợi 
Giáo viên quan sát lắng nghe những âm thanh, cử chỉ, thái độ của 
trẻ trong bầu không khí khuyến khích. Nếu học sinh phản ứng, không đưa 
ra được ý tưởng thì giáo viên đặt câu hỏi kích ứng học sinh trả lời và nêu ý 
tưởng. 
Bước 2: Nắm bắt và làm rõ ý tưởng 
Đây là bước quan trọng nhất của phương pháp phản hồi. Giáo viên 
chọn một

File đính kèm:

  • pdfskkn_van_dung_phuong_phap_phan_hoi_nguoi_me_trong_gio_hoc_va.pdf