SKKN Phụ đạo học sinh yếu môn Ngữ Văn THCS theo đặc trưng bộ môn
Việc " phụ đạo học sinh yếu" là việc vô cùng quan trọng đối với học sinh THCS, nhất là học sinh mới vào lớp 6. Bởi muốn rèn luyện cho các em theo kịp các bạn, thì không có cách nào tốt hơn là thông qua những
buổi phụ đạo, kèm cặp riêng của giáo viên đối với những em học yếu. Qua việc kèm cặp, giáo viên luyện cho học sinh biết đọc, biết vận dụng từ ngữ và các quy tắc ngữ pháp cơ bản đã học để đọc đúng, phát âm đúng, viết đúng, biết diễn đạt ý tưởng chính xác, rõ ràng, trong sáng và áp dụng vào viết tập làm văn.
Hơn nữa giáo viên còn rèn luyện cho học sinh các mặt cụ thể: Đọc đúng (phải rõ nghĩa, rõ ý), giọng nói (phải vừa nghe vừa cố gắng truyền cảm) và viết đúng chính tả (giáo viên đọc, học sinh ghi chính xác). Đọc, viết tốt có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với các em không chỉ việc đọc, tiếp thu kiến thức mà còn phục vụ học sinh trong việc viết bài và cảm thụ văn học theo hướng tích hợp. Rèn luyện kĩ năng đọc, viết, cảm thụ văn học đối với học sinh yếu là một việc khó, nhưng dù khó thế nào, yêu cầu kèm cặp, phụ đạo các em cũng phải luôn luôn được coi trọng.
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Phụ đạo học sinh yếu môn Ngữ Văn THCS theo đặc trưng bộ môn

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM PHỤ ĐẠO HỌC SINH YẾU MÔN NGỮ VĂN THCS THEO ĐẶC TRƯNG BỘ MÔN I- TÊN ĐỀ TÀI: Phụ đạo học sinh yếu môn Ngữ văn THCS theo đặc trưng bộ môn. II – LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI. Việc " phụ đạo học sinh yếu" là việc vô cùng quan trọng đối với học sinh THCS, nhất là học sinh mới vào lớp 6. Bởi muốn rèn luyện cho các em theo kịp các bạn, th ì không có cách nào tốt hơn là thông qua những buổi phụ đạo, kèm cặp riêng của giáo viên đối với những em học yếu. Qua việc kèm cặp, giáo viên luyện cho học sinh biết đọc, biết vận dụng từ ngữ và các quy tắc ngữ pháp cơ bản đã học để đọc đúng, phát âm đúng, viết đúng, biết diễn đạt ý tưởng chính xác, rõ ràng, trong sáng và áp dụng vào viết tập làm văn. Hơn nữa giáo viên còn rèn luyện cho học sinh các mặt cụ thể: Đọc đúng ( phải rõ nghĩa, rõ ý.), giọng nói( phải vừa nghe vừa cố gắng truyền cảm) và viết đúng chính tả (giáo viên đọc, học sinh ghi chính xác). Đọc, viết tốt có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với các em không chỉ việc đọc, tiếp thu kiến thức mà còn phục vụ học sinh trong việc viết bài và cảm thụ văn học theo hướng tích hợp. Rèn luyện kĩ năng đọc, viết, cảm thụ văn học đối với học sinh yếu là một việc khó, nhưng dù khó thế nào, yêu cầu kèm cặp, phụ đạo các em cũng phải luôn luôn được coi trọng. III - THỰC TRẠNG. 1. Thực trạng: Trong thực tế giảng dạy môn ngữ văn ở trường THCS hiện nay, các em mới bắt đầu làm quen với phương pháp học tập bộ môn theo hướng tích hợp. V ì vậy, lớp có nhiều học sinh yếu kém là giờ dạy mà giáo viên ít thành công m ĩ mãn nhất. V ì vậy mà cả giáo viên và học sinh đều ngại dạy và học. Tiết học vừa khô khan lại vừa trầm, kém hiệu quả. Phần lớn các bài, nội dung một tiết rất dài, dung lượng kiến thức nhiều. Mà học sinh yếu,kém, tiếp thu rất chậm. Còn trong giờ kiểm tra, viết bài, các em phải tự lập, phải suy nghĩ, phải giữ g ìn nề nếp của lớp, nề nếp thi cử, dưới sự giám sát của giáo viên, nên đạt điểm kém, từ đó các em chán nản, tự ti giữa bản thân với bạn bè, từ đó các em ngại ngùng tiếp xúc với bạn bè, thầy cô. Kết quả là việc học ngày một nặng nề đối với các em, các em tìm những trò vui khác để bù lấp, như: Ham chơi hơn, hay đi học muộn, bỏ tiết, bỏ học... Bởi vậy người giáo viên phải làm thế nào để giờ dạy có chất lượng tốt? Nghĩa là phải đảm bảo được dung lượng kiến thức, không cháy giáo án mà lại cuốn hút được học sinh tham gia,(đối với các em học sinh tiếp thu chậm, yếu th ì không dễ)? Đối với bản thân tôi, mới có hơn 6 năm làm nghề dạy học, tôi thấy rằng sự chênh lệch kiến thức (trình độ nhận thức) giữa các em trong một lớp là điều không thể tránh khỏi. Vậy chúng ta phải làm như thế nào, đó là điều mà tôi đã trăn trở suy nghĩ nhiều. Là giáo viên trẻ, kinh nghiệm giảng dạy còn nhiều hạn chế, v ì vậy tôi luôn tìm tòi, học hỏi đồng nghiệp để tìm ra những nguyên nhân để kèm cặp, phụ đạo học sinh yếu, kém có hiệu quả? Từ đó có những biện pháp cụ thể nâng cao dần chất lượng dạy và học. Trong tình hình thực tế hiện nay, xã hội ngày càng phát triển th ì môn ngữ văn càng được coi trọng; Việc thay sách trong 7 năm qua ở THCS càng cho chúng ta thấy học sinh phải rèn luyện thành thạo 4 kĩ năng: Nghe, nói, đọc và viết. Hơn nữa, chúng ta đang thực hiện: Chỉ thị “Tránh học sinh ngồi nhầm lớp” và căn cứ vào kết quả khảo sát chất lượng đầu năm ở trường tôi. Tôi quyết định chọn đề tài này để nói những suy ngh ĩ, kinh nghiệm của bản thân về việc "Phụ đạo học sinh yếu -kém" môn ngữ văn THCS theo đặc trưng bộ môn. 2. Cơ sở khoa học, kết quả, hiệu quả của thực trạng trên. Do sự lúng túng của không ít giáo viên trước yêu cầu của việc “phụ đạo”, chưa xác định đúng yêu cầu của tiết phụ đạo. Yêu cầu của tiết phụ đạo phải đạt được những g ì? Đạt đến đâu? Giáo viên nên xác định rõ, để từ đó hướng cho học sinh yếu, kém chẩn bị chu đáo về nội dung cũng như tin tưởng vào thầy cô, bạn bè hơn. * Ví dụ: - Yêu cầu nội dung vấn đề gồm những g ì? Cần đạt đến mức độ nào? - Trong số các bài tập mà sách giáo khoa đưa ra cần chọn bài tập nào là hợp lí nhất đối với đối tượng học sinh của m ình. - Trong bài đã chọn phải định lượng kiến thức thế nào cho phù hợp với học sinh yếu, kém, tránh quá tải, hoặc dàn trải kiến thức, thiếu trọng tâm. - Nét đặc trưng của tiết “phụ đạo” phải làm nổi bật yêu cầu: Biết đọc, viết, cảm nhận và vận dụng. Tiết học có 45 phút, nếu giáo viên không phân lượng thời gian cho hợp lý mà tham kiến thức th ì sẽ quên đi yêu cầu của việc "kèm cặp học sinh yếu". Từ đó dẫn đến tình trạng giáo viên nhận xét thay cho học sinh rồi cho điểm và đó chính là nguyên nhân dẫn đến những em không được gọi trình bày sẽ ít tập trung chú ý, theo dõi bạn trình bày, do đó hiệu quả giờ dạy bị hạn chế đi nhiều. Từ thực trạng trên, để công việc giảng dạy, kèm cặp, phụ đạo đạt hiệu qua tốt hơn, tôi đã mạnh dạn đưa ra những giải pháp và biện pháp cụ thể: IV- NỘI DUNG ĐỀ TÀI. 1. Các giải pháp thực hiện - Việc phụ đạo phải kết hợp giữa lý thuyết và thực hành, coi trọng thực hành đọc bài và rèn chính tả. - Trong giờ ôn luyện, phụ đạo phải gây hứng thú học tập của học sinh, phát huy tính tích cực, độc lập, sáng tao của học sinh. Học sinh rất sinh động, hoạt bát trong nói năng hàng ngày nhưng vào giờ ôn luyện thì lại rụt rè, nói không nên lời (vì các em đọc kém, viết kém, tiếp thu chậm nên e ngại, xấu hổ). Nguyên nhân là phương pháp người giáo viên chưa khêu gợi được sự hứng thú của học sinh, chưa tạo được không khí chan hòa, đồng cảm giữa thầy và trò, giữa trò với nhau. Giờ phụ đạo giáo viên đừng gò bó các em, đừng vội vàng phê phán các biểu hiện chưa tốt của các em. Vấn đề là phải tạo những điều kiện cần và đủ để các em nắm bắt dần tri thức. - Ôn luyện phải kết hợp việc rèn luyện kĩ năng với việc giáo dục tư tưởng, tình cảm, tư dy cho học sinh. Phụ đạo học sinh yếu trước hết phải giáo dục lòng yêu mến tự hào về tiếng Việt, từ đó mà tự hào về dân tộc ta. Ôn luyện không chỉ cho các em b iết đọc, biết viết . . . mà phải dạy chiều sâu của tâm hồn, tư tưởng của học sinh, mà cụ thể hơn cả là dạy nếp sống có văn hóa. - Phụ đạo phải kết hợp nhà trường, đoàn thể và gia đ ình: Xuất phát từ phương châm giáo dục: " Kết hợp nhà trường, gia đ ình và xã hội". Trước hết phải làm cho gia đ ình gương mẫu, tạo điều kiện cho các em có ý thức học hơn. Phải biết nhắc nhở, đôn đốc con cái.. . 2. Những biện pháp. * Biện pháp thứ nhất: Giáo viên phải nắm vững yêu cầu của tiết dạy, chúng ta phải hiểu rằng đây là tiết giúp học sinh "biết đọc, biết viết sau đó biết vận dụng". Giáo viên phải nêu thật rõ yêu cầu ôn luyện. Khi học sinh tr ình bày, giáo viên phải nắm bắt để nhận xét, đúng khả năng, thành tích đạt được của các em qua quá trình đọc, viết. Việc ôn luyện đúng theo yêu cầu trên trong 2 năm gần đây( đặc biệt là trong học kì I vừa qua) tôi thấy đã mang lại kết quả tương đối khả quan: Học sinh dần dần mạnh dạn, chủ động hơn, tr ình bày các vấn đề tương đối tự tin, lưu loát hơn. * Biện pháp thứ hai: Hướng dẫn việc chuẩn bị bài ở nhà cho học sinh. Muốn một giờ phụ đạo đạt kết quả tốt, ngoài việc hướng dẫn học sinh đi đúng yêu cầu của một giờ ôn luyện trên lớp thì việc cho các em chuẩn bị bài ở nhà cũng rất quan trọng. Muốn các em chuẩn bị bài tốt, có chất lượng thì sự chuẩn bị, hướng dẫn của giáo viên cũng phải chu đáo. Người thầy phải làm khâu này khoa học, cụ thể. Trong sách giáo khoa thường có một số vấn đề để giáo viên lựa chọn, vậy nên chọn đề nào cho phù hợp, để có hiệu quả cao cho đối tượng học sinh của m ình dạy theo ý chủ quan của giáo viên. Khi đã chọn được đề phù hợp rồi, giáo viên phải phân việc cụ thể cho từng đối tượng học sinh ( có thể phân theo dãy bàn, tổ, nhóm) để học sinh chuẩn bị kĩ lưỡng, tránh đối phó qua loa, đại khái. * Ví dụ: Trong tiết ôn luyện về văn tự sự ở lớp 6 có đề bài: Sự mưu trí, thông minh của em bé dược thử thách qua mấy lần? Lần sau khó hơn lần trước không? V ì sao?. Trong văn bản “Em bé thông minh”. Với đề bài này ta thấy cần có 4 ý chính: 1) Ai ra câu đố? 2) Những ai phải giải đố? 3) Nội dung đố là gì? 4) Cách giải đố của em bé? Giáo viên phải phân cho học sinh như sau: - Nhóm chuẩn bị: Câu hỏi 1,3. - Nhóm chuẩn bị: Câu hỏi 2,4. Khi dạy bài này giáo viên có thể cho học sinh xung phong tr ình bày các vấn đề, hoặc có thể gọi các nhóm trình bày. Giáo viên căn cứ vào các câu hỏi về nhà của học sinh để rút kinh nghiệm cho các em, làm sao lần sau chuẩn bị tốt hơn lần trước. Học sinh vừa luyện đọc ở nhà vừa có tinh thần tự giác làm bài. * Biện pháp thứ ba: Tổ chức thi đọc diễn cảm, đọc sách báo nghe chung nhằm rèn ngữ điệu và cách phát âm chuẩn cho học sinh. Tổ chức cho học sinh nói chuyện trước lớp, trước tổ, trước trường. Có thể cho các em kể chuyện vui, chuyện cười hoặc các tác phẩm văn học. Tổ chức và phát động thi “Vở sạch chữ đẹp ở từng tổ” và thường xuyên kiểm tra vở ghi bài của học sinh. Trên đây là những biện pháp mà tôi đã làm trong hơn một năm học đã qua, đã đưa đến kết quả thiết thực trong từng tiết dạy ở các lớp tôi dược phân công giảng dạy. Nhưng đây mới chỉ là những kinh nghiệm ít ỏi. Muốn đạt được kết quả cao trong việc ôn luyện, phụ đạo th ì chúng ta - những người giáo viên - chưa phải là đã hết trăn trở mà chúng ta phải tiếp tục tìm tòi, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau để rút ra những bài học tốt nhất, đạt được hiệu quả cao nhất mỗi khi gặp học sinh “ngồi nhầm lớp” ở bậc THCS. 3. Giáo án dạy 1 tiết phụ đạo ngữ văn lớp 6. LUYỆN TẬP ĐỌC, VIẾT, CÁCH DÙNG TỪ NGỮ A. Mục tiêu: - Giúp HS: Biết đọc, viết và nhận ra được các lỗi mắc phải khi dùng từ, đặt câu.(từ không đúng về nghĩa). - Rèn kĩ năng đọc, viết, làm bài tập tổng hợp. B. Chuẩn bị: Giáo viên: giáo án, bảng phụ... Học sinh: Chuẩn bị bài tập ở nhà... C. Hoạt động dạy học: Ổn định lớp. Kiểm tra bài cũ: Sự chuẩn bị bài và học bài của
File đính kèm:
skkn_phu_dao_hoc_sinh_yeu_mon_ngu_van_thcs_theo_dac_trung_bo.pdf