Sáng kiến kinh nghiệm Một số lưu ý khi giảng dạy bài ký "Cô Tô" của Nguyễn Tuân

Chương trình cải cách thay sách giáo khoa môn Ngữ Văn đã thực hiện tròn vòng và bước sang năm thứ 6. Năm học 2007 - 2008 là năm mà chương trình Ngữ Văn lớp 6 đã thực hiện sáu năm. Trong thời gian ấy, chúng tôi - những người trực tiếp giảng dạy Ngữ Văn đã có cố gắng cải cách thực sự về phương pháp tích cực và tích hợp và đã có những bước tiến đáng kể. Một trong những thể loại được đưa vào sách Ngữ Văn mới khá nhiều là thể ký: Chỉ riêng ở sách giáo khoa Ngữ Văn 6 - tập 2 đã có 5 tác phẩm.

Học sinh lớp 6 là đối tượng còn non nớt ngây thơ. Một bài ca dao, một câu chuyện cổ có lẽ lôi cuốn hấp dẫn các em dễ dàng hơn là những trang ký ngồn ngộn sự sống. Đó chưa kể những bài ký nặng về chất chính luận, thiên về sự kiện, quả là một thử thách đối với các em. Vậy làm thế nào để các em tiếp nhận với những bài ký một cách hứng thú, phát hiện ra được nét riêng, hấp dẫn ở mỗi tác phẩm là điều trăn trở khi tôi dạy thể loại này cho đối tượng lớp 6.

pdf 15 trang Huy Quân 01/04/2025 300
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số lưu ý khi giảng dạy bài ký "Cô Tô" của Nguyễn Tuân", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số lưu ý khi giảng dạy bài ký "Cô Tô" của Nguyễn Tuân

Sáng kiến kinh nghiệm Một số lưu ý khi giảng dạy bài ký "Cô Tô" của Nguyễn Tuân
 PHÒNG GIÁO DỤC THÀNH PHỐ VINH 
 TRƯỜNG THCS HÀ HUY TẬP. 
 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 
 ĐỀ TÀI: 
MỘT SỐ LƯU Ý KHI GIẢNG DẠY BÀI KÝ 
"CÔ TÔ" CỦA NGUYỄN TUÂN 
 GI ÁO VI ÊN: ĐẶNG THỊ HƯƠNG 
 N ĂM H ỌC: 2008- 2009 
A. MỞ ĐẦU: 
 I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: 
 Chương trình cải cách thay sách giáo khoa môn Ngữ Văn đã thực hiện tròn 
vòng và bước sang năm thứ 6. Năm học 2007 - 2008 là năm mà chương trình 
Ngữ Văn lớp 6 đã thực hiện sáu năm. Trong thời gian ấy, chúng tôi - những 
người trực tiếp giảng dạy Ngữ Văn đã có cố gắng cải cách thực sự về phương 
pháp tích cực và tích hợp và đã có những bước tiến đáng kể. 
 - Một trong những thể loại được đưa vào sách Ngữ Văn mới khá nhiều là 
thể ký: Chỉ riêng ở sách giáo khoa Ngữ Văn 6 - tập 2 đã có 5 tác phẩm. Học sinh 
lớp 6 là đối tượng còn non nớt ngây thơ. Một bài ca dao, một câu chuyện cổ có lẽ 
lôi cuốn hấp dẫn các em dễ dàng hơn là những trang ký ngồn ngộn sự sống. Đó 
chưa kể những bài ký nặng về chất chính luận, thiên về sự kiện, quả là một thử 
thách đối với các em. Vậy làm thế nào để các em tiếp nhận với những bài ký một 
cách hứng thú, phát hiện ra được nét riêng, hấp dẫn ở mỗi tác phẩm là điều trăn 
trở khi tôi dạy thể loại này cho đối tượng lớp 6. 
 Với những băn khoăn trên tôi đã cố gắng khai thác các cách tiếp cận 
những bài ký khác nhau. Cùng thể loại nhưng bài thì thiện về ký sự( sự việc), bài 
thì thiên về cảm xúc( tuỳ bút), bài lại thiên về chất chính luận( Lòng yêu nước), 
bài lại thiên về thuyết minh (Cây tre Việt Nam), bài ký mở đầu cho chuỗi tác 
phẩm ấy là "Cô Tô" của Nguyễn Tuân. 
 - Trong thực tế dự giờ của một số đồng nghiệp, tôi thấy có một số người 
dạy chưa đúng thể loại, dạy ký mà chẳng khác gì một bài văn tả cảnh. Số khác lại 
quá nặmg về thể loại- bài dạy trở nên khô khan nặng nề, học sinh chán học, nhất 
lạilà học sinh lớp 6 còn ngây thơ chưa có bản lĩnh trong việc tiếp nhận một thể 
loại văn học mới lạ so với cấp I mà cá em vừa trải qua. 
 - Mặt khác, trong xu hướng tích hợp hiện nay, trong những văn bản ký ta 
vẫn có thể khai thác những điều thú vị nếu đi sâu tìm hiểu (yếu tố miêu tả, yếu tố 
biểu cảm...). Và văn bản "Cô Tô" mà tôi lựa chọn để thực hiện đề tài sau đây đã 
có những đặc điểm ấy. 
 Trong khi đó thì qua thực tế giảng dạy và khảo sát sách giáo khoa, sách 
giáo viên và một số tài liệu tôi nhận thấy có nhiều điểm của bài ký chưa được 
khai thác hết , ví dụ: Sách giáo khoa cso yêu cầu và hướng dẫn học sinh khai thác 
chủ yếu vào cảnh đẹp thiên nhiên, cảnh sinh hoạt và lao động của người dân trên 
dảo, chứ không khắc sâu cái thời điểm diễn ra những yếu tố ấy: đó là khi cơn bão 
vừa đi qua. 
 Đó là chưa kể cuốn Thiết kế bài giảng Ngữ Văn của Nguyễn Văn Đường - 
Hoàng Dân lại viết quá sơ sài. 
 Ngay cả trong cuốn Bình giảng Ngữ Văn 6 cũng đã viết khá hay về bài 
này vẫn còn bỏ qua những hình ảnh đặc sắc trong bài mà theo tôi là Nguyễn Tuân 
đã có dụng ý đưa vào. 
 Với những lý do trên đây, tôi đã chọn đề tài" Một số lưu ý khi giảng dạy 
bài ký "Cô Tô" của Nguyễn Tuân". 
II. NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI: 
 Với đề tài này, tôi muốn trình bày những nhận thức chung của bản thân về 
phương pháp dạy bài Cô Tô và sau đó trình bày cụ thể hướng khai thác hai tiết 
dạy bài ký Cô Tô với một số phát hiện ngoài những gì mà các tài liệu giảng dạy 
đã có. 
 Ngoài ra đề tài còn trình bày các thao tác trắc nghiệm, kiểm tra để đánh 
giá thông tin và xử lý kết quả của đề tài. 
III. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ: 
 Bài ký đã từng có mặt trong văn học 6 tập I ( sách chỉnh lý); khi đưa vào 
Ngữ Văn 6 - tập 2 đã lược bỏ một phần của đoạn giữa - đoạn tả con thuyền của 
Châu Hoà Mãn và màu xanh nước biển buổi chiều. Đây là một đoạn đặc sắc, 
nhưng để cảm thụ được cái hay của nó phải có một vốn hiểu biết văn học và đời 
sống thật phong phú; mà điều này chưa thể có ở học sinh lớp 6. 
 Tìm hiểu đánh giá phân tích về bài ký đã có nhiều cuốn sách; riêng về sách 
tham khảo đã có: Sách giáo viên Ngữ Văn 6 - Bình giảng Văn 6 ( Vũ Dương 
Quỹ). 
 Hệ thống câu hỏi Ngữ Văn 6 - Trần Đình Chung; Thiết kế bài giảng Ngữ 
Văn 6 - Nguyễn Văn Đường - Hoàng Dân. 
IV. CƠ SỞ LÝ LUẬN: 
V. CƠ SỞ THỰC TIỄN : 
VI. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI ĐỀ TÀI: 
 1. Đối tượng: 
 Học sinh khối 6, đặc biệt là hai lớp tôi trực tiếp giảng dạy 6A, 6B năm học 
2007- 2008. 
 2. Phạm vi nghiên cứu. 
 Một số phát hiện mới và phương pháp dạy bài ký "Cô Tô" của Nguyễn 
Tuân. 
VII. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: 
 1. Phương pháp nghiên cứu: 
Đọc - tìm hiểu tham khảo các taì liệu có liên quan đến bài học theo tinh thần cải 
cách mới: tìm hiểu ưu, nhược điểm từ đó xây dựng một cách dạy cho bài ký. 
 2. Phương pháp thực nghiệm: 
 Qua thực tế giảng dạy trực tiếp lớp 6A, 6B - qua thực tiễn kiểm tra khả 
năng tiếp thu bài của học sinh. 
 3. Phương pháp điều tra: Qua việc 
 - Dự giờ đồng nghiệp. 
 - Thảo luận. góp ý xây dựng giờ dạy cảu học sinh trong các lớp tôi giảng 
dạy. 
B.N ỘI DUNG: 
I.XÁC ĐỊNH MỤC TIÊU BÀI HỌC: 
 - Đây là một đoạn trích từ thiên ký dài cùng tên của Nguyễn Tuân. Sách 
giáo viên, sách thiết kế đã xác định được mục tiêu cần đạt cảu bài dạy là: Cho 
học sinh cảm nhận được vẻ đẹp sinh động, sáng của bức tranh thiê nhiên và đời 
sống con người ở vùng đoả Cô Tô được miêu tả trong bài văn. 
 -Thấy được nghệ thụât miêu tả và tài năng sử dụng ngôn ngữ điêu luyện 
của tác giả. 
 Theo tôi vê mục tiêu bài học, cần lưu ý thêm hai vấn đề nữa: 
 + Đây là vẻ đẹp của thiên nhiên và cuộc sống sinh hoạt của con gnười Cô 
Tô sau bão. 
 + Qua văn bản, cho học sinh hiểu thế nào là ký; Tích hợp thêm với miêu tả 
(Tập làm văn). 
II. MỘT SỐ ĐIỂM CẦN LƯU Ý THÊM VỀ NỘI DUNG CẦN KHAI THÁC: 
 1. Từ mục tiêu trên đây tôi thấy cần phải bổ sung thêm về một số nội dung 
cần khai thác như sau: 
 - Nhìn chung ở các tài liệu tham khảo và sách giáo viên như đã nói ở trên 
tôi thấy hầu hết đã xác định đúng trọng tâm của bài ký, làm rõ được các vấn đề: 
- Về nội dung: 
 + Cảnh Cô Tô trong sáng, tinh khôi sau trận bão. 
 + Cảnh mặt trời mọc tuyệt đẹp rực rỡ tráng lệ. 
 + Cảnh sinh hoạt vừa khẩn trương, tấp nập, vừa thanh bình. 
- Về nghệ thuật: 
 + Thấy được tài năng qua sát, miêu tả. 
 + Ngôn ngữ chính xác, điêu luyện, tinh tế độc đáo của tác giả. 
Từ đó thấy được tình yêu, sự gắn bó của tác giả với một vùng biển đảo của Tổ 
quốc. 
 * Tuy nhiên theo tôi, ở bài ký này, ngoài những nội dung trên, chúng tacòn 
phải lưu ý dẫn dắt học sinh vấn đề sau: toàn bộ bức tranh thiên nhiên và sinh hoạt 
cảu con người ở trên được quan sát và miêu tả, cảm nhận vào một thời điểm đặc 
biệt: Sau cơn bão. 
 Thông thường khi cơn bão đi qua, người ta thường nhận thấy sự đổ nát, tàn 
phá của nó. Riêng ở bài ký này, qua các cảm nhận của nhà văn ta không nhận 
thấy điều đó; Thậm chí cảnh vật lại hiện lên như mang một sắc thái mới, tinh 
khôi, quang đãng như vừa được gột rửa, thay áo mới; cảnh vật bừng lên trong 
những nét đẹp đầy sức sống, như một cuộc hồi sinh kỳ diệu. Nếu chú ý đọc kỹ 
tác phảm ta sẽ thấy rất nhiều câu văn, hình ảnh, tác giả đã nhấn mạnh vào thời 
khắc sau bão. Ví dụ " Sau mỗi lần giông bão bao giờ bầu trời Cô Tô cũng trong 
sáng như vậy..." và một loạt hình ảnh minh hoạ cho điều đó. 
 " Cây lại thêm xanh mượt 
 Nước lại lam biếc đậm đà hơn 
 Cát lại vàng giòn hơn nữa... 
 Lưới càng thêm nặng..." 
 Một loạt phụ từ được sử dụng: "Lại"( 3 lần), "Càng" (1 lần) để diễn tả ý 
nghĩa tiếp diễn tăng tiến: Cảnh vật như ta thấy quả thật là đẹp hơn, đậm sắc hơn 
nhiều khi bão vừa đi qua, cứ như là một phép màu nhiệm. 
 + ở bức tranh thứ hai: Cảnh mặt trời lên ta cũng nhận thấy điều này: Mặt 
trời bừng lên trong một không gian thật mới lạ"Sau trận bão, chân trời ngấn bể 
sạch như tấm kính lau hết mây hết bụi..." Dường như khi trận bão đi qua giông tố 
phũ phàng mới đủ sức gột rửa để " lau" đi hết "mây, bụi" cho nên trở nên trong 
veo" như một tấm kính": làm nền cho vầng thái dương xuất hiện. Phải chăng vì 
thế mà "quả trứng thiên nhiên" ấy càng "hồng hào", "thăm thẳm", "đường bệ" 
chẳng khác gì một "mâm lễ phẩm" tiến ra từ trong bình minh. 
 Bên cạnh vẻ đẹp tráng lệ của mặt trời tác giả còn điểm xuyết một số nét vẽ 
cso vẻ bâng quơ nhưng theo tôi thật tài hoa và tinh tế. Đó là hình ảnh "Vài chiếc 
nhạn mùa thu chao đi chao lại trên mâm bể...", "Một con hải âu bay ngang là là 
nhịp cánh..." 
 Mùa thu - mùa của bão tố, vậy àm lúc này đây - mặt bỉen thật quá đỗi bình 
yên. "Chiếc nạhn" - hình ảnh mỏng manh như một chiếc lá và phải nìn từ xa. Còn 
"Một con hải au" lại nhìn từ một góc độ rất gần, nên rất rõ. Một: là chiếc nahn 
mùa thu; một nữa là hải âu - là dấu hiệu của điềm lành ( vì hải âu vốn báo hiệu 
sự bình yên). Chúng xuất hiện trong những động tác " chao đi chhao lại", "là là 
nhịp cánh" gợi cảnh tượng bình yên biết bao; làm cho bức tranh biển ấy vừa tĩnh 
lại vừa động. Những nét vẽ mỏng manh, thanh tú ấy như một dấu hiệu để khẳng 
định: Cảnh vật nơi đây dường như chưa từng đi qua bão tố, đã thật sự bình yên. 
 +Ở bức tranh sinh hoạt là nhộn nhịp của cảnh gánh nước, chuẩn bị cho 
những chuyến ra khơi. Điểm nhìn của tác giả là từ cái giếng nước ngọt - sự sinh 
hoạt hội tụ ở đây. Tác giả đã tả " Cái sinh hoạt của nó vui như một cái bến, đạm 
đà mát nhẹ hơn mọi cái chợ trong đất liền..." 
 Ở đây ta bắt gặp một hình ảnh rất độc đáo" Lòng giếng vẫn còn rớt lại vài 
cái lá cam, lá quýt của trận bão vừa rồi quăng vào..." Hình ảnh thật sống động và 
thật là thú vị; sách bình giảng văn 6 đã viết:" Hình ảnh này để thừa nhận đây là 
một cái giếng có thực chứ không phải trong cổ tích..." Theo tôi hình ảnh này còn 
có một ý nghĩa nữa: Cái lá cam lá quýt ấy có vẻ như một nét tả bình thường 
nhưng lại đầy dụng ý của tác giả: Nhờ có nó - phải có nó - những chiếc lá ấy- 
mới là bằng chứng để minh chứng cho trận bão vừa đi qua. Còn nếu không, cuộc 
sống nơi đây diễn ra thanh bình, khẩn trương nhộn nhịp, hối hả, dường như 
không hề có dấu tích của bão tố. Sự sinh hoạt mau chóng hồi sinh ấy muốn nói 
với chúng ta điều gì? Dấu vết của bão tố còn đ

File đính kèm:

  • pdfsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_luu_y_khi_giang_day_bai_ky_co_t.pdf