SKKN Thực hiện công tác xã hội hóa giáo dục bằng giải pháp huy động các nguồn lực tham gia công tác giáo dục
Xác định tầm quan trọng của sự nghiệp giáo dục. Trong những năm từ 1990 nhà trường được thành lập tách ra từ trường THCS. Trong giai đoạn này sự nghiệp giáo dục của tỉnh và huyện nhà nói chung cũng đang trên đà phát triển. Tuy nhiên còn chậm. Thực trạng cho thấy các nhà trường nói chung còn đang khó khăn về chất lượng đội ngũ còn yếu và còn thiếu. Điều kiện cơ sở vật chất của các nhà trường còn thiếu thốn và lạc hậu. Trong thời gian này trường Tiểu học Xuân Trường chỉ có 02 dãy phòng học gồm 14 phòng vừa là phòng học và phòng làm việc. Các bộ phận văn phòng cũng chỉ làm chung 01 phòng duy nhất. Sân trường rộng 3.200m2 nhưng là nền đất, bụi nhiều về mùa nắng và sói mòn về mùa mưa, học sinh còn phải học 3 ca.
Đặc biệt phân hiệu ở xa điểm chính 4,5 km đường đất khó đi tại đây chỉ có 5 phòng, sân đất gồ ghề. Do điều kiện cơ sở vật chất còn khó khăn dẫn đến học sinh cũng hạn chế các hoạt động GDNG, các tiết thể dục học trên sân trường chưa đạt hiệu quả. Học sinh đi học sáng áo trắng, chiều áo đỏ bám đất do sân trường đất đỏ rất bụi. Dẫn đến hiệu quả các hoạt động công tác Đội, các phong trào trong năm không cao. Công tác quản lý giáo dục còn kém hiệu quả. Tư duy giáo dục chậm đổi mới. Nguồn lực và nhân lực còn thiếu. Việc đầu tư cho giáo dục chưa tương xứng với mong muốn về yêu cầu chất lượng. Xuất phát từ những thực trạng cơ sở vật chất chưa đáp ứng tốt cho các hoạt động giáo dục của nhà trường. Bản thân tôi đã nỗ lực huy động các nguồn lực, tìm ra những nguồn lực hỗ trợ giúp đỡ để tạo điều kiện cho sự phát triển của nhà trường. Đó là lý do tôi chọn đề tài nâng cao chất lượng hoạt động giáo dục thông qua công tác “Huy động nguồn lực tham gia giáo dục”.
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Thực hiện công tác xã hội hóa giáo dục bằng giải pháp huy động các nguồn lực tham gia công tác giáo dục

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI Đơn vị: Tiểu học Xuân Trường Mã số: ................................ (Do HĐKH Sở GD&ĐT ghi) SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM THỰC HIỆN CÔNG TÁC XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC BẰNG GIẢI PHÁP HUY ĐỘNG CÁC NGUỒN LỰC THAM GIA CÔNG TÁC GIÁO DỤC Người thực hiện: Vũ Thị Lan Lĩnh vực nghiên cứu: - Quản lý giáo dục 1 - Phương pháp dạy học bộ môn: ............................. 1 (Ghi rõ tên bộ môn) - Lĩnh vực khác: ....................................................... 1 (Ghi rõ tên lĩnh vực) Có đính kèm: Các sản phẩm không thề hiện trong bản in SKKN 1 Mô hình 1 Phần mềm 1 Phim ảnh 1 Hiện vật khác Năm học: 2011-2012 BM 01-Bia SKKN SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC I. THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN 1. Họ và tên: Vũ Thị Lan 2. Ngày tháng năm sinh: 01-01-1966 3. Nam, nữ: Nữ 4. Địa chỉ: Trung Nghĩa, xã Xuân Trường, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai 5. Điện thoại: 0613751552 (CQ)/ (NR); ĐTDĐ: 0933326937 6. Fax: E-mail: 7. Chức vụ: Hiệu trưởng 8. Đơn vị công tác: Tiểu học Xuân Trường, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO - Học vị (hoặc trình độ chuyên môn, nghiệp vụ) cao nhất: ĐHSP - Năm nhận bằng: 2009 - Chuyên ngành đào tạo: Cử nhân khoa học III. KINH NGHIỆM KHOA HỌC - Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: Quản lý Số năm có kinh nghiệm: 10 năm - Các sáng kiến kinh nghiệm đã có trong 5 năm gần đây: + Công tác huy động các nguồn lực tham gia công tác giáo dục + Đổi mới công tác đổi mới quản lí nhà trường BM02-LLKHSKKN I . LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng để thúc đẩy sự nghiệp phát triển của đất nước. Là điều kiện để phát huy nguồn lực của con người. Xác định tầm quan trọng của sự nghiệp giáo dục. Trong những năm từ 1990 nhà trường được thành lập tách ra từ trường THCS. Trong giai đoạn này sự nghiệp giáo dục của tỉnh và huyện nhà nói chung cũng đang trên đà phát triển. Tuy nhiên còn chậm. Thực trạng cho thấy các nhà trường nói chung còn đang khó khăn về chất lượng đội ngũ còn yếu và còn thiếu. Điều kiện cơ sở vật chất của các nhà trường còn thiếu thốn và lạc hậu. Trong thời gian này trường Tiểu học Xuân Trường chỉ có 02 dãy phòng học gồm 14 phòng vừa là phòng học và phòng làm việc. Các bộ phận văn phòng cũng chỉ làm chung 01 phòng duy nhất. Sân trường rộng 3.200 m 2 nhưng là nền đất, bụi nhiều về mùa nắng và sói mòn về mùa mưa, học sinh còn phải học 3 ca. Đặc biệt phân hiệu ở xa điểm chính 4,5 km đường đất khó đi tại đây chỉ có 5 phòng, sân đất gồ ghề. Do điều kiện cơ sở vật chất còn khó khăn dẫn đến học sinh cũng hạn chế các hoạt động GDNG, các tiết thể dục học trên sân trường chưa đạt hiệu quả. Học sinh đi học sáng áo trắng, chiều áo đỏ bám đất do sân trường đất đỏ rất bụi. Dẫn đến hiệu quả các hoạt động công tác Đội, các phong trào trong năm không cao. Công tác quản lý giáo dục còn kém hiệu quả. Tư duy giáo dục chậm đổi mới. Nguồn lực và nhân lực còn thiếu. Việc đầu tư cho giáo dục chưa tương xứng với mong muốn về yêu cầu chất lượng Xuất phát từ những thực trạng cơ sở vật chất chưa đáp ứng tốt cho các hoạt động giáo dục của nhà trường. Bản thân tôi đã nỗ lực huy động các nguồn lực, tìm ra những nguồn lực hỗ trợ giúp đỡ để tạo điều kiện cho sự phát triển của nhà trường. Đó là lý do tôi chọn đề tài nâng cao chất lượng hoạt động giáo dục thông qua công tác “Huy động nguồn lực tham gia giáo dục”. II. TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI 1. Cơ sở lý luận Từ năm 1999 Nghị định số 73/1999/NĐ-CP Nghị định của chính phủ đã đề cập rất nhiều đến chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục. Vận động và tổ chức sự tham gia rộng rãi của nhân dân. Huy động các nguồn lực trong nhân nhân dân và trong các tổ chức mọi thành phần kinh tế để phát triển các hoạt động giáo dục. Nhằm từng bước nâng cao mức hưởng thụ về giáo dục. Trong dự án giáo dục Tiểu học cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn của Bộ giáo dục và đào tạo cũng đã nêu rõ việc phát huy vai trò của cộng đồng, không chỉ huy động cộng đồng trong xây dụng CSVC mà trong quá trình Dạy học. Đã từ lâu có xu hướng ngày càng tăng việc hành chính hóa các cơ quan, tổ chức của nhà nước ở Việt Nam và trường học không phải là ngoại lệ. Hiệu trưởng phải là người lãnh đạo sáng tạo và năng động. Biết nhìn nhận tình huống xã hội xung quanh trường để đua ra những quyết định chính xác thúc đẩy việc đào tạo của nhà trường đáp ứng yêu cầu của thực tế. Vậy yếu tố nào để giúp ta có thể quyết định đưa chất lượng hoạt động giáo dục của nhà trường đi lên. Đó chính là nguồn lực. Nguồn lực là tất cả những yếu tố và phương tiện mà hệ thống có quyền chi phối, điều khiển, sử dụng để thực hiện mục tiêu của mình, có thể chia nguồn lực ra các bộ phận khác nhau như nguồn nhân lực ( con người) nguồn tài lực ( tài chính) và nguồn vật lực ( là nguồn CSVC), nguồn lực thông tin. Với khái niệm trên tôi xin phân tích theo cách hiểu của mình về các nguồn lực. Nguồn nhân lực: Là lực lượng CBGV-CNV với năng lực chuyên môn của từng người tham gia vào các hoạt động của nhà trường. Nhân lực và nguồn lực quan trọng nhất là vốn quý nhất để phát triển nhà trường. Do đó phải đảm bảo đủ về số lượng và đạt chuẩn về trình độ. Nguồn lực tài chính: Đây là khoản ngân sách Nhà nước hỗ trợ cho hoạt động thường xuyên trong nhà trường, nguồn lực này chỉ đáp ứng chủ yếu là lương của Đội ngũ CBGV-CNV, còn kinh phí chi cho các hoạt động thường xuyên rất hạn chế. Nguồn lực vật chất: Là khoản trợ cấp, bổ sung cho những trường cần có sự trang bị cấp thiết. Nguồn lực này cấp rất hạn chế. Nguồn lực thông tin: Là những thông tin nắm được phục vụ cho việc ra quyết định giải quyết các nhiệm vụ. Là yếu tồ không thể thiếu được đối với bất cứ đơn vị nào. Dựa trên những nguồn thông tin đó để nhà trường có thể nắm bắt tâm tư nguyện vọng của PHHS để thực hiện tốt nhiệm vụ giáo dục. Với cách hiểu nêu trên. Tôi nhận thấy rằng mình cần phải tập hợp các nhân tố bên trong cũng như bên ngoài nhà trường, tranh thủ cơ hội tìm kiếm khai thác các nguồn lực cộng tác để phát triển nhà trường. 2. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài Như đã trình bày ở phần đầu về thực trạng CSVC của nhà trường còn rất khó khăn, việc đầu tiên tôi thực hiện là phải cải tạo môi trường học tập trước hết là cần phải bêtông hóa sân trường để học sinh có một sân chơi sạch sẽ và để thuận lợi cho việc tổ chức các hoạt động ngoài trời. Trong giai đoạn này đứng trước thực trạng về một ngôi trường còn thiếu thốn rất nhiều từ CSVC chưa đáp ứng tốt cho công tác Dạy và Học cho đến đội ngũ giáo viên về trình độ trên chuẩn chưa được nâng lên. Do đó bản thân tôi đã phối hợp tổ chức, huy động các lực lượng xã hội cùng tham gia hoạt động giáo dục, phát huy vai trò của cộng đồng trong công tác xã hội hóa giáo dục để cải tạo cơ sở vật chất Công tác này tôi đã thực hiện và xin được trình bày trong 3 giai đoạn bằng những việc làm cụ thể như sau: a) Giai đoạn nhà trường từ năm 2004 - 2007 +Công tác tổ chức: Cùng với ban chấp hành Hội CMHS chúng tôi xây dựng kế hoạch thực hiện XHHGD về công tác huy động nguồn lực để cải tạo sân trường trong thời gian là 5 năm. Tiến hành xin chủ trương của chính quyền địa phương. Sau khi được sự chấp thuận chúng tôi tiến hành tuyên truyền. + Công tác tuyên truyền: Để thay đổi môi trường, tạo cho trẻ có sân chơi sạch sẽ. Tôi đã tuyên truyền đến toàn thể cha mẹ học sinh có con em học tại trường về yếu tố cần thiết để nâng cao chất lượng giáo dục, điều trước tiên cần cải tạo bêtông hóa sân trường từ sân đất sói mòn nhiều về mùa mưa và bụi về mùa nắng. Giải thích cặn kẽ những ích lợi mà PHHS cùng nhà trường chăm lo cho các em. Khi được sự đồng thuận của PHHS tôi tiến hành vận động, ngoài việc PHHS đóng góp bằng tiền của thì tôi cũng kêu gọi sự ủng hộ bằng vật chất hoặc công lao động Ngoài ra tôi còn cùng với BCH Hội CMHS đi đến vận động các mạnh thường quân, các cơ sở kinh doanh và các tổ chức tôn giáo trên địa bàn xã thông qua lời ngỏ. Các nguồn vận động được giao cho BCH Hội quản lý và tổ chức thực hiện. Về phía nhà trường trên cơ sở tham mưu và có ý kiến đóng góp. Các thành viên trong BCH Hội được phân công nhiệm vụ cụ thể rõ ràng, công trình được tiến hành dưới sự giám sát của PHHS và của địa phương. Được thực hiện trong 03 năm đã thực hiện đạt chỉ tiêu đề ra. + Kết quả: Năm 2004- 2005 đã thực hiện bêtông được là: 610 m2 Năm 2005- 2006 đã thực hiện bêtông được là: 980 m 2 Năm 2006 - 2007 đã thực hiện bêtông được là: 820 m 2 Theo kế hoạch đề ra là 5 năm thì mới chỉ trong vòng 3 năm chúng tôi đã hoàn thành được chỉ tiêu. b. Giai đoạn nhà trường đang xây dựng: “Thời gian 1 năm 2008-2009”. Từ đầu năm học tháng 9 nhà trường mới ổn định học sinh đi vào nề nếp đến đầu tháng 10 năm 2008 đã phải bàn giao mặt bằng cho công trình xây dựng. trong thời gian này vì tiếc công sức đã cải tạo sân trường mà PHHS cùng nhà trường đã nỗ lực trong những năm qua. Do đó tôi đã huy động được 90 công lao động đến trường nạy các tấm đan ở sân trường tại điểm chính chuyển vào điểm lẻ cách điểm chính 4,5 km và làm sân cho học sinh. Tại điểm lẻ tôi cũng huy động được hơn 56 công để cải tạo sân trường Vận động được 5.500.000 đồng để di chuyển tài sản đi gửi và ổn định 5 điểm học tạm của học sinh trong thời gian xây trường. Vận động được 5 triệu để mướn công di dời 05 cây phượng hiện hữu tại điểm chính để khi công trình xây xong nhà trường có cây bóng mát. c. Giai đoạn nhà trường đã xây dựng xong “năm học 2009-2010”: Ngay từ đầu năm học sau khi nhận bàn giao trường mới một cơ sở có quy mô khá lớn các trang thiết bị như bàn ghế, tủ được trang bị đầy đủ nhưng nếu chỉ dừng lại ở một cơ sở được xây dựng, trang bị như thế nào thì sử dụng như thế đó thì thật đáng tiếc Trong thời gian này tôi cùng phối hợp với BCH Hội xây dựng kế hoạch, tiếp tục tuyên truyền đến PHHS các
File đính kèm:
skkn_thuc_hien_cong_tac_xa_hoi_hoa_giao_duc_bang_giai_phap_h.pdf