SKKN Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong đổi mới phương pháp dạy - Học và công tác quản lý giáo dục

Phần 1: Làm quen với máy tính ( Lớp 3) Khám phá máy tính

( lớp 4, 5)

Ở phần học này, ngay từ bài học đầu tiên, GV cần giúp cho HS xác định rõ và nhận biết các bộ phận của máy tính và tác dụng của các bộ phận đó bằng cách cho HS quan sát ngay trong giờ giảng lý thuyết. Sau đó, vấn đề làm tôi quan tâm nhất là tạo cho các em có thao tác đúng và thành thạo khi sử dụng chuột, bàn phím,

Ví dụ: Ở bài Bàn phím máy tính: Để giúp các em làm quen với bàn phím, Gv cho Hs nêu tên tất cả các phím và cho chơi một số trò chơi có nội dung về bàn phím. Trong đó có trò chơi Pi-an no( phần mềm Pianito). Nhưng theo tôi phần mềm này không đạt hiệu quả vì các máy của HS không có tai nghe hay loa nên HS dễ nhàm chán vì gõ mà không thấy có kết quả gì. Vì thế, theo tôi ngay từ bài học này GV có thể hướng dẫn HS làm quen luôn với phần mềm Mario. Như thế HS vừa nắm được tên của các phím, vừa gây được hứng thú học tập của các em. Còn phần mềm đó GV nên giới thiệu cho HS và khuyến khích các em chơi ở nhà.

Ví dụ : Bài Chuột máy tính: Để giúp các em sử dụng thành thạo các thao tác ngay trong tiết học GV cần lồng ghép một số trò chơi như: Trò chơi Dots, trò chơi Stick hoặc mội vài trò chơi khác nhưng phải có tính giáo dục ( thay vì đợi đến Phần trò chơi HS mới được chơi) . Đối với những HS yếu, cũng giống như HS lớp 1, GV phải cầm tay các em để chỉ dẫn. Với phương pháp này, HS nắm bắt rất nhanh, rất hứng thú và nhanh chóng sử dụng được chuột.

Ở lớp 4 và 5: Lúc này các em đã được hiểu biết nhiều hơn về máy tính nên GV sẽ có những yêu cầu cao hơn. HS phải nắm được cách sắp xếp thông tin theo hệ thống của máy tính. Biết cách sắp xếp và tìm kiếm thông tin.

Ví dụ : Lớp 5 GV yêu cầu mỗi HS phải tạo được cho mình một thư mục riêng để khi lưu các tài liệu sẽ được đưa về một chỗ, các bài làm của các em sẽ được sắp xếp ngăn nắp hơn, dễ tìm kiếm hơn và lưu có hệ thống hơn.

* Phần 2: Học và Chơi cùng máy tính

GV yêu cầu HS cần có thái độ nghiêm túc khi học và làm việc trên máy tính, không phân biệt phần mềm học tập hay phần mềm trò chơi. GV cần liên hệ thực tế để giúp HS nắm được từ việc học và chơi trên máy tính đến đời sống thường ngày.

Ví dụ: + Luyện tính kiên trì, trí thông minh, luyện sử dụng chuột qua trò chơi Dots, Stiks,

 + Yêu thích môn Toán qua trò chơi Cùng học toán.

 + Chơi thể thao, tìm hiểu thiên nhiên qua trò chơi Golf, Khám phá rừng nhiệt đới.

Ở chương học này, thời gian thực hành khá dài, dễ gây nhàm chán. GV nên chủ động dạy dàn trải trong các tiết học.

 

doc 16 trang camtu 07/10/2022 11820
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong đổi mới phương pháp dạy - Học và công tác quản lý giáo dục", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong đổi mới phương pháp dạy - Học và công tác quản lý giáo dục

SKKN Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong đổi mới phương pháp dạy - Học và công tác quản lý giáo dục
LỜI NÓI ĐẦU
	Các bạn đồng nghiệp thân mến !
 Trong thời đại bùng nổ công nghệ thông tin hiện nay, hoà chung với phong trào thi đua sôi nổi của ngành giáo dục “Xây dựng trường học thân thiện - Học sinh tích cực” thầy và trò trường chúng tôi đang cùng nhau nỗ lực, gắng sức thi đua “Dạy tốt - Học tốt” hoàn thành nhiệm vụ cao cả của mình. Biển học là bao la, tri thức là vô hạn”. Mỗi người trong chúng ta đều có những năng lực tiềm ẩn, những kinh nghiệm xuất chúng. Nói như vậy không có nghĩa là đề cao bản thân mình mà xem thường việc học hỏi kinh nghiệm từ các bạn đồng nghiệp. Với quan điểm này, tôi rất muốn chia sẻ với các bạn một số kinh nghiệm nho nhỏ với hy vọng được giao lưu học hỏi lẫn nhau, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục của lớp, của trường. Đề tài mang tên “Một số biện pháp để dạy tốt môn Tin Học ở Tiểu Học” sẽ giúp các bạn có thêm những biện pháp thiết thực nhằm giúp học sinh Tiểu học dễ dàng tiếp cận và học tốt bộ môn rất mới và còn nhiều bỡ ngỡ đối với giáo viên cũng như học sinh Tiểu học.
	Rất mong sự góp ý nhiệt tình của các bạn đồng nghiệp, ban giám hiệu nhà trường và lãnh đạo các cấp. Xin chân thành cảm ơn!
A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài.
* Tầm quan trọng của công nghệ thông tin: 
Trong thời đại của chúng ta, sự bùng nổ CNTT đã tác động lớn đến công cuộc phát triển kinh tế xã hội người. Đảng và Nhà nước đã xác định rõ ý nghĩa và tầm quan trọng của Tin học và CNTT, truyền thông cũng như những yêu cầu đẩy mạnh của ứng dụng CNTT, đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH, mở cửa và hội nhập, hướng tới nền kinh tế tri thức của nước ta nói riêng - thế giới nói chung. 
Chỉ thị số: 3398 /CT-BGDĐT của bộ giáo dục đào tạo ngày 11/8/2011 chỉ rõ một trong những nhiệm vụ trọng tâm của năm học 2011/2012 là “ Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong đổi mới phương pháp dạy - học và công tác quản lý giáo dục. ”
Chính vì xác định được tầm quan trọng đó nên Nhà nước ta đã đưa môn Tin học vào trong nhà trường và ngay từ Tiểu học học sinh được tiếp xúc với môn Tin học để làm quen dần với lĩnh vực CNTT, tạo nền móng cơ sở ban đầu để học những phần nâng cao trong các cấp tiếp theo. 
	II. Mục đích nghiên cứu.
	Nâng cao chất lượng giảng dạy và đổi mới phương pháp dạy môn Tin học ở Tiểu học.
F Mục tiêu của CNTT trong trường học
Mục đích của việc ứng dụng CNTT vào trường nói chung và trường Tiểu học nói riêng là sử dụng CNTT như một công cụ lao động trí tuệ, giúp lãnh đạo các nhà trường nâng cao chất lượng quản lí, giúp các thầy giáo, cô giáo nâng cao chất lượng dạy học; trang bị cho HS kiến thức về CNTT, HS sử dụng máy tính như một công cụ học tập nhằm nâng cao chất lượng học tập; góp phần rèn luyện HS một số phẩm chất cần thiết của người lao động trong thời kỳ hiện đại hóa.
FMục tiêu của việc dạy học môn Tin học ở bậc Tiểu học là nhằm giúp cho học sinh :
- Có hiểu biết ban đầu về Tin học và ứng dụng Tin học trong học tập và trong đời sống.
- Có khả năng sử dụng máy tính trong việc học những môn học khác, trong hoạt động vui chơi giải trí nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và thích ứng với đời sống xã hội hiện đại.
- Bước đầu làm quen với cách giải quyết vấn đề có sử dụng công cụ Tin học.
	III. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu. 
	- HS khối 3-4-5 
	- Theo dõi và kiểm tra đánh giá việc tiếp thu bài của HS. 
	- Kiểm tra chất lượng sau giờ học.
Phương pháp nghiên cứu lí luận:
Bộ môn Tin học là một bộ môn mới ở trường Tiểu học và chủ yếu là sử dụng phương pháp trực quan sinh động để ứng dụng thực hành do đó việc nghiên cứu lí luận là không thể thiếu do vậy khi xây dựng đề tài này tôi đã nghiên cứu các tài liệu tham khảo sau: Giáo trình Word thực hành, Giáo trình Excel thực hành,Tin Học Thực Hành, Đồ họa thực hành, Hướng dẫn sửa lỗi máy tính, Giáo trình photoshop, Sách giáo khoa quyển 1, Sách giáo khoa quyển 2, Sách giáo khoa quyển 3.
Phương pháp ứng dụng thực tiễn.
- Phương pháp quan sát. - Kiểm tra việc học tập của học sinh (bài cũ, bài mới)
- Phương pháp điều tra. (Phỏng vấn học sinh khối 3,4, 5. Sử dụng bảng biểu đối chiếu). 
- Phương pháp khảo nghiệm thăm lớp, dự giờ. Kiểm tra chất lượng sau giờ học.
B. PHẦN NỘI DUNG
I) Cơ sở lí luận và thực tiễn.
1. Cơ sở lí luận.
- Nghị quyết 40/2000/QH10 và chỉ thị 14/2001/CT-TT ngày 9/12/2000 vầ việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông: Nội dung chương trình là tích cực áp dụng một cách sáng tạo các phương pháp tiên tiến, hiện đại, ứng dụng CNTT vào dạy và học.
- Trong nhiệm vụ năm học 2005-2006 Bộ trưởng giáo dục và đào tạo nhấn mạnh : Khẩn trương triển khai chương trình phát triển nguồn nhân lực CNTT từ nay đến năm 2010 của chính phủ về đề án dạy Tin học ứng dụng CNTT và truyền thông giai đoạn 2004-2006.
- Chỉ thị 29/CT của trung ương Đảng về việc đưa CNTT vào nhà trường.
- Thông tư số 14/2002/TT- BGD& ĐT ngày 1/4/2002 về việc hướng dẫn quán triệt chủ trương đổi mới giáo dục phổ thông.
2. Cơ sở thực tiễn. 
* Tình trạng hiện nay. 
- Nội dung chương trình môn Tin học hiện nay được dạy theo bộ sách Cùng học Tin học Quyển 1; Quyển 2; Quyển 3 do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định.
- Nhà trường đã được trang bị phòng máy với 24 máy dành cho HS và 1 máy chủ dành cho GV. Các máy được kết nối với nhau tạo điều kiện thuận lợi cho việc giảng dạy.
- Nhà trường đã trang bị cho GV đầy đủ SGK và các phần mềm kèm theo.
Một số thuận lợi và khó khăn khi trực tiếp giảng dạy môn Tin học tại trường:
* Một số điều kiện thuận lợi.
Nhà trường đã trang bị khá đầy đủ các trang thiết bị, Sách giáo khoa và các phần mềm kèm theo tạo điều kiện thuận lợi cho GV trong việc giảng dạy.
Nội dung sách nhẹ nhàng, trình bày đẹp, sách chú trọng nhiều về phần thực hành rất phù hợp với lứa tuổi HS Tiểu học.
HS từ khối 3 đến khối 5 được học môn Tin học. Mỗi lớp được học với thời lượng 2 tiết/ 1tuần.
HS đã nắm được các kiến thức cơ bản của bài học. Từ đó HS đã biết sử dụng và ứng dụng phần mềm vào việc học tập.
Kỹ năng thực hành của HS khá tốt.
* Một số khó khăn và tồn tại:
Về phía giáo viên:
Môn Tin học mới chỉ là môn tự chọn trong chương trình bậc tiểu học 
nên chương trình và sự phân phối chương trình bước đầu có sự thống nhất và 
đang hoàn chỉnh. Hiện nay Bộ giáo dục và đào tạo mới đang thí điểm dạy 
môn Tin học từ lớp 3 cho một số tỉnh và thành phố và biên soạn quyển sách cùng học tin học quyển 1,2,3. 
Tuy giáo viên đã được đào tạo cơ bản về kiến thức Tin học, nhưng khi thực hành, máy móc gặp sự cố, trục trặc, giáo viên không xử lý kịp thời dẫn đến học sinh thiếu máy, không thực hành được. 
Do mới là môn tự chọn nên giáo viên dạy Tin học tiểu học là giáo viên hợp đồng trường, chỉ tiêu biên chế chưa có, lương thấp nên cũng phần nào làm ảnh hưởng đến chất lượng dạy và học. 
Tài liệu tham khảo dành riêng cho bộ môn Tin học còn quá ít. Nhất là những tài liệu nói về phương pháp dạy học đặc trưng của môn Tin học.
Phần mềm Encore ( Em học nhạc) đã được cài đặt nhưng việc sử dụng còn gặp nhiều khó khăn do:
+ GV chưa sử dụng thành thạo phần mềm nhạc.
+ Kiến thức về âm nhạc còn hạn chế.
Về phía học sinh: 
Đa số HS không có máy ở nhà để luyện tập nên các thao tác của HS chưa được thành thạo.
Đây là môn học phụ nên một số HS chưa học nghiêm túc và phụ huynh chưa quan tâm.
Việc rèn luyện thói quen gõ 10 ngón tay cho HS còn gặp khó khăn do HS không có nhiều thời gian cho việc luyện tập trên lớp.
II) Một số biện pháp để dạy tốt môn Tin học ở Tiểu học:
Cải thiện chất lượng phòng máy:
Việc sửa chữa máy tính trong phòng máy đã có nhân viên bảo trì đến sửa chữa. Nhưng người quản lí trực tiếp và thường xuyên nhất chính là GV. Để có một tiết thực hành đạt hiệu quả cao và không ảnh hưởng nhiều đến HS thì tất cả các máy trong phòng phải hoạt động tốt. Thế nhưng trong quá trình sử dụng máy tính, chúng ta vẫn thường xuyên gặp phải những lỗi hệ thống từ nhỏ đến lớn. Trong đó, những sự cố bất thường như: treo máy, khởi động lại, thậm chí tắt luôn không khởi động được.làm ảnh hưởng rất nhiều đến giờ dạy. Trước khi gọi nhân viên bảo trì tới sửa, là một GV Tin học, bạn cũng cần phải nắm bắt một số những thủ thuật cơ bản nhất để xử lí kịp thời.
Với những sự cố bất ngờ trên, việc xác định nguyên nhân của nó sẽ giúp ta tìm ra cách giải quyết, xử lí vấn đề dễ dàng hơn:
	- Việc đầu tiên là cần phải kiểm tra tất cả các cáp (cáp nguồn, cáp dữ liệu) để chắc chắn là mọi thứ đã được gắn chặt và đúng cách.
Kiểm tra lại những phần mềm hay phần cứng được cài đặt gần đây: Nếu sự cố xảy ra ngay sau vừa cài đặt một phần cứng hay chương trình phần mềm, bạn hãy gỡ bỏ chúng ra và khởi động trở lại. Nếu máy tính vẫn hoạt động bình thường thì đó chính là nguyên nhân. Còn việc cài đặt lại sẽ do nhân viên bảo trì tiếp tục làm sau đó.
Chạy các chương trình diệt virút hiệu quả: Để chương trình này chạy tốt bạn phải luôn cập nhập phiên bản mới nhất. Các chương trình được xem là tốt nhất hiện nay như: Norton Antivirus 2006, AGV Antivirus
Kiểm tra nhiệt độ thùng máy : Sự quá nhiệt là một nguyên nhân khác, thường xảy ra do sự hoạt động kém của các quạt giải nhiệt, các loại bụi bẩn bám trong thùng máy. Nếu thấy bên trong thùng máy có nhiều bụi bẩn bám vào, bạn nên vệ sinh nhưng phải rất cẩn thận vì nó có nguồn điện thế cao, rất dễ gây nguy hiểm. Tốt hơn hết là nên báo lại cho nhân viên bảo trì.
Kiểm tra lại bộ nhớ Ram: Đây là nguyên nhân chủ yếu mà tôi thường gặp mỗi khi máy không khởi động được hoặc bị lỗi bất thường khi đang hoạt động. Nếu phát hiện ra bộ nhớ có vấn đề, hãy tháo các thanh Ram ra, lau sạch chân thanh Ram và gắn lại thật chặt, hoặc lần lượt gắn từng thanh Ram ở các vị trí khác nhau để kiểm tra.
Đôi lúc máy chạy nhưng màn hình không lên hình. Hãy mượn màn hình đang sử dụng tốt khác để thử.
Tóm lại : Là GV Tin học, công việc chính là giảng dạy. Nhưng nếu Gv có thể khắc phục được những sự cố nhỏ một cách kịp thời đó sẽ đem lại hiệu quả lớn trong quá trình nâng cao chất lượng giờ thực hành.
Sắp xếp nội dung, phương pháp học tập cho từng phần học phù hợp, hiệu quả.
Nội dung giảng dạy là chương trình SGK Cùng học Tin học quyển 1, 2, 3. Nội dung rất phù hợp, lôi cuốn HS. Đ ... , HS nắm bắt rất nhanh, rất hứng thú và nhanh chóng sử dụng được chuột.
Ở lớp 4 và 5: Lúc này các em đã được hiểu biết nhiều hơn về máy tính nên GV sẽ có những yêu cầu cao hơn. HS phải nắm được cách sắp xếp thông tin theo hệ thống của máy tính. Biết cách sắp xếp và tìm kiếm thông tin. 
Ví dụ : Lớp 5 GV yêu cầu mỗi HS phải tạo được cho mình một thư mục riêng để khi lưu các tài liệu sẽ được đưa về một chỗ, các bài làm của các em sẽ được sắp xếp ngăn nắp hơn, dễ tìm kiếm hơn và lưu có hệ thống hơn.
* Phần 2: Học và Chơi cùng máy tính 
GV yêu cầu HS cần có thái độ nghiêm túc khi học và làm việc trên máy tính, không phân biệt phần mềm học tập hay phần mềm trò chơi. GV cần liên hệ thực tế để giúp HS nắm được từ việc học và chơi trên máy tính đến đời sống thường ngày.
Ví dụ: + Luyện tính kiên trì, trí thông minh, luyện sử dụng chuột qua trò chơi Dots, Stiks, 
	+ Yêu thích môn Toán qua trò chơi Cùng học toán. 
	+ Chơi thể thao, tìm hiểu thiên nhiên qua trò chơi Golf, Khám phá rừng nhiệt đới.
Ở chương học này, thời gian thực hành khá dài, dễ gây nhàm chán. GV nên chủ động dạy dàn trải trong các tiết học. 
* Phần 3: Em tập gõ bàn phím : 
Đây cũng là phần trọng tâm của chương trình lớp 3. Phần này đòi hỏi phải có sự tập luyện thường xuyên thì mới đạt hiệu quả cao được. GV cần giúp HS hiểu được lợi ích của việc gõ phím bằng 10 ngón để từ đó HS có ý thức hơn trong việc rèn luyện. Không cần nhiều, ở mỗi tiết thực hành, nếu còn thời gian hãy khuyến khích HS luyện gõ trong 10 phút thôi sẽ mang lại hiệu quả rất tốt. Cần phải chú trọng và nghiêm túc rèn từ lớp 3 về cách đặt tay lên bàn phím, cách gõ phímthì đến lớp 4 - 5 HS mới có thói quen gõ 10 ngón.
* Phần 4: Em tập vẽ.
Với phần học này, HS rất có hứng thú học tập. Ở phần học này GV cần chú trọng cho HS thực hành nhiều, giảm tiết lý thuyết hoặc có thể giảng lý thuyết ngay trong tiết thực hành. Như vậy học sinh mới có thao tác thành thạo được. Ngoài việc dạy những yêu cầu cơ bản trong SGK. Nếu có điều kiện GV có thể thiết kế các bài tập khác để phần học này thêm phong phú.
Ví dụ: Bài Vẽ đường cong: SGK yêu cầu HS vẽ con cá và chiếc lá. Gv có thể giới thiệu thêm cho các em một số mẫu vẽ khác như Cái nôi em bé, Sóng biển, cái quạt, hoặc em hãy tự nghĩ ra những vật gì có sử dụng đường cong để vẽ dành cho những HS đã hoàn thành bài vẽ theo yêu cầu.
Ở lớp 4 - 5, yêu cầu đã được nâng cao hơn. Ngoài những kiến thức cơ bản cần đạt được ra, GV cần quan tâm nhiều đến vấn đề ứng dụng của các kiến thức đó vào bài vẽ.
Ví dụ : Khi vẽ một bức tranh về giao thông, ở ngã tư có 4 cột đèn. HS có thể sao chép và lật hình để có 4 cột đèn theo ý mình mà không tốn nhiều thời gian. 
* Phần 5: Em tập soạn thảo.
Nội dung kiến thức chủ yếu là tạo cho HS những kiến thức cơ bản nhất để soạn thảo và trình bày một văn bản. Ở phần này GV cũng chú ý đến dạy thực hành hơn, dạy xong lý thuyết là cho HS thực hành ngay như vậy HS mới nắm được. 
Ở lớp 3 HS được làm quen với 2 cách gõ là kiểu VNI và kiểu Telex. Gv cần cung cấp cả 2 cách gõ này và khuyến khích các em lựa chọn cách gõ phù hợp để việc soạn thảo dễ dàng hơn. 
Ở lớp 4 và 5 HS đã được học cách trình bày văn bản. GV hãy tạo điều kiện cho các em ứng dụng những kiến thức vừa học vào trình bày những văn bản thông thường .
Ví dụ: Khi dạy bài Căn lề (lớp 4) GV đưa thêm một số bài thơ, bài ca dao tục ngữ hay một đoạn văn bản đã học trong SGK Tiếng Việt mà HS đã học ở trên lớp để các em thực hành.
* Phần 6: Thế giới Logo của em.
Logo là một ngôn ngữ lập trình, có đầy đủ các đặc điểm của một ngôn ngữ máy tính, xuất phát từ ngôn ngữ LISP, ngôn ngữ của trí tuệ nhân tạo. Logo là ngôn ngữ để học. Để hỗ trợ thực hiện quá trình học và suy nghĩ bằng cách khuyến khích HS tìm tòi khám phá. Logo có bảng kí tự, từ khóa riêng, cú pháp riêng và khá chặt chẽ. 
Ở lớp 4 và lớp 5 HS mới được làm quen với phần mềm này và đây cũng là lần đầu tiên HS được làm quen với ngôn ngữ lập trình. Do vậy, khi thực hành những câu lệnh của Logo GV cần lưu ý HS phải rất cẩn thận khi viết các câu lệnh, tránh để HS hiểu tùy tiện, áp dụng những ngôn ngữ thông thường dành cho câu lệnh. 
Đứng trước mỗi bài tập, bài thực hành, GV luôn luôn yêu cầu HS chia công việc được giao thành những nhiệm vụ nhỏ hơn và cuối cùng dùng những lệnh cơ bản của Logo để thực hiện. Sau khi chia nhỏ và phân tích bài toán, cần rèn luyện cho HS cách nhìn tổng hợp bài toán. 
Khuyến khích HS làm việc tập thể, làm việc theo nhóm .
	Ví dụ: 
B2/123 SGK . Viết chương trình gồm một số thủ tục để tạo ra hình trang trí theo mẫu.
Để làm được bài tập này, GV cho HS thảo luận nhóm 4 và chia việc cho từng HS cụ thể như:
Thủ tục 1: Vẽ hình vuông với câu lệnh Repeat 4[FD 50 T 90]
Thủ tục 2: Vẽ tam giác: Repeat 3 [FD 50 RT 120]
Thủ tục 4: Vẽ ngôi nhà: dùng hai thủ tục 1 và 2 tong thân thủ tục 3.
	Thủ tục 4: Vẽ vành bánh xe (lặp 12 lần thủ tục 3).
Tận dụng những nguồn tài nguyên sẵn có của máy vi tính, hoặc truy cập mạng để tìm hiểu thông tin, tìm kiếm tài nguyên trên Internet phục vụ cho quá trình dạy và học.
Giáo viên có kế hoạch bồi dưỡng để nâng cao kiến thức bản thân đáp ứng được những yêu cầu đổi mới, cập nhập thông tin một cách đầy đủ, chính xác.
III) Đánh giá kết quả thực hiện.
	Sau khi nghiên cứu và qua quá trình trải nghiệm tôi nhận thấy đã đạt được hiệu quả đáng khích lệ. Số lượng HS sử dụng thạo máy tính mỗi năm một tăng lên. Tiết dạy cũng trở nên nhẹ nhàng và hiệu quả hơn, tạo được nhiều hứng thú cho học sinh trong quá trình tiếp thu bài.
Dưới đây là bảng thống kê về chất lượng đã đạt được trong năm học vừa qua: 
Chất lượng đạt được trong năm học 2014 -2015:
Kết quả 
Tin học
Điểm kiểm tra môn Tin học
TSHS
9;10
7;8
5;6
SHS
%
SHS
%
SHS
%
Tổng số
226
180
63.77
46
29.47
0
0
+ Khối 3
86
69
80.23
17
19.77
0
0
+ Khối 4
74
61
82.43
13
17.57
0
0
+ Khối 5
66
50
75.76
16
24.24
0
0
 PHẦN KẾT LUẬN - KIẾN NGHỊ
1. KẾT LUẬN
 Nâng cao hiệu quả giáo dục luôn là vấn đề cấp bách đựơc đặt lên hàng đầu trong sự nghiệp giáo dục. Dạy tốt - học tốt là mục tiêu mà những người làm công tác giáo dục hướng tới. Tôi xin trích dẫn lời nói của nguyên Tổng Bí Thư Nông Đức Mạnh trong lễ khai giảng năm học mới tại một trường ở thị xã Sơn Tây “ Muốn có chất lượng, hiệu quả ở một trường học, giữa hai yếu tố dạy và học thì yếu tố học là cực kỳ quan trọng. Dạy tốt mà học không tốt thì cũng không có được kết quả tốt. Muốn tiếp thu tốt kiến thức, các thầy cô giáo dạy thì học sinh phải chăm chỉ học”.
 Trong những năm gần đây, nhiều nội dung của công tác thi đua trong nghành giáo dục đã đựơc cụ thể hoá bằng các cuộc vận động “ Hai không” cuộc vận động “ Mỗi thầy cô giáo là tấm gương tự học và sáng tạo” phong trào “ Xây dựng trường học thân thiện - Học sinh tích cực”. Những cái tên như thế đã thực sự gắn với trách nhiệm và đựơc sự ủng hộ của các thầy cô giáo, các bậc phụ huynh và toàn xã hội
 Theo tôi song song với việc bồi dưỡng nhân tài, nâng cao chất lượng giáo dục thì việc đưa giảng dạy bộ môn Tin học là nhiệm vụ cần thiết và cấp bách góp phần nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực phù hợp với việc phát triển kinh tế xã hội trong thời kỳ mới - Thời kỳ bùng nổ công nghệ thông tin phù hợp với quan điểm của Đảng là: Phấn đấu nước ta tới 2020 là nước công nghiệp hiện đại và ngay trong nhiệm vụ năm học 2011/2012 Bộ trưởng giáo dục đào tạo nhấn mạnh: Khẩn trương triển khai chương trình phát triển nguồn nhân lực CNTT và đề án dạy Tin học ứng dụng CNTT và truyền thông của ngành. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong đổi mới phương pháp dạy - học và công tác quản lý giáo dục. Tiếp tục thực hiện tổ chức dạy học môn Tin học theo Chương trình giáo dục phổ thông ban hành kèm theo Quyết định số 16/2006/QĐ-BGDĐT ngày 05 tháng 5 năm 2006 của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
 Sáng kiến kinh nghiệm mang nội dung “Một số biện pháp để dạy tốt môn Tin Học ở Tiểu Học” sẽ phần nào giúp các đồng nghiệp có thêm những kinh nghiệm nhằm góp phần quan trọng vào việc giảng dạy bộ môn Tin học còn mới mẻ trong trường tiểu học hiện nay đặc biệt là những trường đang bắt đầu áp dụng bộ môn Tin học trong trường Tiểu học.
 Những biện pháp tôi vừa trình bày không phải quá xa lạ đối với chúng ta, nó tựa như những thứ “Rau cỏ trị bệnh” mà ta bắt gặp trong cuộc sống đời thường. Bất cứ ai cũng có thể hiểu và áp dụng được. Tuy vậy, trong thực tế không phải lúc nào cũng đựơc giáo viên chú trọng nó đòi hỏi ở lương tâm người thầy, cần phải coi học sinh như chính những đứa con của mình. Khi những cố gắng của người giáo viên đạt kết quả tốt, được học sinh tin yêu. Đó mới chính là phần thưởng lớn nhất trong cuộc đời dạy học của mình.
 Tôi mong muốn những biện pháp cũng như quan điểm của mình được quý vị đón nhận và áp dụng triển khai trong để chứng minh tính khả thi của sáng kiến kinh nghiệm rất mong Ban giám hiệu và các đồng chí đồng nghiệp góp ý kiến để sáng kiến kinh nghiệm ngày càng hoàn thiện hơn. 
* Nhà trường:
 Môn tin học là môn chủ yếu thực hành trên máy tính là dụng cụ học tập có giá trị cao về vật chất do đó cần có sự quan tâm đúng mức của các cấp các ngành và nhà trường tạo điều kiện sắm sửa máy móc, trang thiết bị phục vụ cho việc dạy và học môn Tin học để giúp cho các em có điều kiện học tập tốt nhất.
* Giáo viên: 
- Tìm tòi sáng tạo cách dạy, cách học tạo sự hứng thú tiếp thu bài . 
- Yêu nghề, mến trẻ, nâng cao chuyên môn nghiệp vụ 
- Thăm lớp dự giờ, hội thảo phương pháp giảng dạy các bộ môn khác. 
- Tích cực tham mưu với nhà trường để tăng cường nâng cấp máy, trang thiết bị dạy học. 
 * Phụ huynh học sinh: 
Cần có sự quan tâm đúng mực quản lý thời gian và tạo điều kiện mua sắm máy tính để các em thực hành ở nhà
Trên đây là một số những biện pháp mà tôi đã áp dụng vào dạy môn Tin học. Bài viết này chắc chắn còn nhiều thiếu sót, tôi rất mong được sự góp ý kiến của của chuyên môn và các đồng nghiệp để tôi giảng dạy ngày một tốt hơn.
Kim Thư, Ngày 13 tháng 04 năm 2015
 Người viết 
Nguyễn Thị Thu Giang
ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG GIÁM KHẢO TRƯỜNG
ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG GIÁM KHẢO PHÒNG GIÁO DỤC HUYỆN

File đính kèm:

  • docskkn_tang_cuong_ung_dung_cong_nghe_thong_tin_trong_doi_moi_p.doc