SKKN Một số biện pháp tổ chức thực hiện có hiệu quả, công tác đánh giá và kiểm định chất lượng giáo dục ở một Trường THCS vùng ven Thành phố
Từ xưa đến nay, dù bất cứ chế độ chính trị xã hội nào đi nữa thì giáo dục
vẫn luôn giữ một vai trò, vị trí quan trọng, bởi vì không có nó thì làm sao nhân
cách trẻ có thể hình thành và phát triển đúng hướng được. Đặc biệt, ngày nay
trong công cuộc công nghiệp hóa và hiện đại đất nước, giáo dục lại giữ một vị
trí quan trọng hơn trong việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng
nhân tài, góp phần vào việc xây dựng một nền kinh tế trí thức. Tuy nhiên, trong
thực tế của nước ta, giáo dục ở các cấp học và trình độ đào tạo đang phải đối
mặt với những khó khăn và thách thức mới, nhất là tình trạng chất lượng giáo
dục chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội trong giai đoạn hiện nay. Để
khắc phục những hạn chế bất cập nêu trên, Bộ Giáo dục và Đào tạo, đã và đang
triển khai đổi mới mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục, tiếp tục đào tạo và
bồi dưỡng giáo viên, tăng cường cơ sở vật chất (CSVC), và đặc biệt là đẩy mạnh
công tác đánh giá và kiểm định chất lượng giáo dục ở các cấp học, nhằm tạo
ra bước chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng giáo dục của hệ thống giáo dục
quốc dân. Với vai trò, vị trí quan trọng và to lớn của GD-ĐT như thế, nên Quốc
hội đã nghiên cứu, bàn bạc thống nhất đưa việc Kiểm định chất lượng giáo dục
phổ thông vào Luật. Và được thể chế hóa trong luật giáo dục (năm 2005 và sửa
đổi năm 2009- Điều 17). Như vậy, việc đánh giá và kiểm định chất lượng giáo
dục (KĐCLGD) là một trong những nội dung quan trọng được Bộ GD&ĐT xác
định và tăng cường chỉ đạo thực hiện từ năm 2008 bằng Chỉ thị số 46/2008/CT
BGDĐT. Tiếp theo Chỉ thị đó ngày 12/5/2009 Bộ GD&ĐT ra Thông tư số
12/2009/TT-BGDĐT Ban hành Quy định về tiêu chuẩn đánh giá chất lượng
giáo dục trường trung học cơ sở. Như vậy qua đó có thể thấy tính cấp thiết của
các cơ sở giáo dục cần phải đẩy mạnh trong giai đoạn hiện nay đó là: thực hiện
nghiêm túc khâu đầu tiên (tự đánh giá) trong quy trình kiểm định chất lượng
giáo dục.
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Một số biện pháp tổ chức thực hiện có hiệu quả, công tác đánh giá và kiểm định chất lượng giáo dục ở một Trường THCS vùng ven Thành phố

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN CÓ HIỆU QUẢ, CÔNG TÁC ĐÁNH GIÁ VÀ KIỂM ĐỊNH CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC Ở MỘT TRƯỜNG THCS VÙNG VEN THÀNH PHỐ 1.Tên đề tài: MỘT SỐ BIỆN PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN CÓ HIỆU QUẢ, CÔNG TÁC ĐÁNH GIÁ VÀ KIỂM ĐỊNH CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC Ở MỘT TRƯỜNG THCS VÙNG VEN THÀNH PHỐ. 2. Đặt vấn đề: 2.1. Lý do chọn đề tài: Từ xưa đến nay, dù bất cứ chế độ chính trị xã hội nào đi nữa thì giáo dục vẫn luôn giữ một vai trò, vị trí quan trọng, bởi vì không có nó thì làm sao nhân cách trẻ có thể hình thành và phát triển đúng hướng được. Đặc biệt, ngày nay trong công cuộc công nghiệp hóa và hiện đại đất nước, giáo dục lại giữ một vị trí quan trọng hơn trong việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài, góp phần vào việc xây dựng một nền kinh tế trí thức. Tuy nhiên, trong thực tế của nước ta, giáo dục ở các cấp học và trình độ đào tạo đang phải đối mặt với những khó khăn và thách thức mới, nhất là tình trạng chất lượng giáo dục chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội trong giai đoạn hiện nay. Để khắc phục những hạn chế bất cập nêu trên, Bộ Giáo dục và Đào tạo, đã và đang triển khai đổi mới mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục, tiếp tục đào tạo và bồi dưỡng giáo viên, tăng cường cơ sở vật chất (CSVC), và đặc biệt là đẩy mạnh công tác đánh giá và kiểm định chất lượng giáo dục ở các cấp học, nhằm tạo ra bước chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân. Với vai trò, vị trí quan trọng và to lớn của GD-ĐT như thế, nên Quốc hội đã nghiên cứu, bàn bạc thống nhất đưa việc Kiểm định chất lượng giáo dục phổ thông vào Luật. Và được thể chế hóa trong luật giáo dục (năm 2005 và sửa đổi năm 2009- Điều 17). Như vậy, việc đánh giá và kiểm định chất lượng giáo dục (KĐCLGD) là một trong những nội dung quan trọng được Bộ GD&ĐT xác định và tăng cường chỉ đạo thực hiện từ năm 2008 bằng Chỉ thị số 46/2008/CT- BGDĐT. Tiếp theo Chỉ thị đó ngày 12/5/2009 Bộ GD&ĐT ra Thông tư số 12/2009/TT-BGDĐT Ban hành Quy định về tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục trường trung học cơ sở. Như vậy qua đó có thể thấy tính cấp thiết của các cơ sở giáo dục cần phải đẩy mạnh trong giai đoạn hiện nay đó là: thực hiện nghiêm túc khâu đầu tiên (tự đánh giá) trong quy trình kiểm định chất lượng giáo dục. Để thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả Chỉ thị số 46/2008 của Bộ GD&ĐT và Thông tư số 12/2009 thì mỗi cá nhân, đơn vị trong Ngành, nhất là người đứng đầu của cơ sở giáo dục phổ thông phải làm gì và làm như thế nào để đạt hiệu quả cao? và khi triển khai ai sẽ làm? thời gian bắt đầu và kết thúc? Đó là những câu hỏi thôi thúc, làm cho tôi băn khoăn trăn trở trong suốt thời gian qua. Để tìm được câu trả lời cho những câu hỏi trên, với tư cách là một cán bộ quản lý trường THCS tôi đã đầu tư vào nghiên cứu, giải quyết vấn đề, xác định đề tài: “Một số biện pháp tổ chức thực hiện có hiệu quả công tác đánh giá và kiểm định chất lượng giáo dục Trung học cơ sở, ở một trường vùng ven Thành phố”, mà trọng tâm là thực hiện có hiệu quả báo cáo tự đánh giá. 2.2. Thực trạng: - Đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên nhà trường tuy đạt chuẩn 100%, trên chuẩn hơn 65%, nhưng nhìn chung khả năng mô tả hiện trạng, đánh giá, phân tích các mặt hoạt động của nhà trường theo các tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành để chỉ ra được những điểm mạnh, điểm yếu, nguyên nhân và đề ra được kế hoạch cải tiến chất lượng khả thi là điều hoàn toàn không phải dễ. Mặt khác công tác tự đánh giá không được phép thực hiện một cách tùy tiện, suy diễn, cảm tính, thiếu căn cứ, mà phải đảm bảo nghiêm ngặt, khoa học theo đúng Hướng dẫn số 7880/BGDĐT- KTKĐCLGD, trong khi đó trên địa bàn thành phố lại chưa có một đơn vị nào được Tỉnh công nhận là hoàn thành công tác kiểm định chất lượng giáo dục. Như vậy, có thể nói công tác đánh giá và kiểm định chất lượng giáo dục là việc làm không những mới mẽ đối CBGV mà cả với lãnh đạo nhà trường, địa phương và chưa có điển hình nào trên địa bàn để học tập, trao đổi. - Việc tổ chức nghiên cứu, học tập, quán triệt các văn bản của Bộ GD&ĐT có liên quan đến công tác tự đánh giá, như: Hướng dẫn tự đánh giá cơ sơ giáo dục phổ thông; Thông tư của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Quy định về tiêu chuẩn đánh giá chất lượng trường THCS; Công văn hướng dẫn xác định nội hàm, tìm thông tin (TT) và minh chứng (MC) để đánh giá chất lượng, vẫn chưa được thực hiện một cách chu đáo, nghiêm túc, hiệu quả. Hậu quả là chưa xác định đúng về phương pháp, phạm vi tự đánh giá. Trầm trọng hơn là xem nhẹ các yêu cầu trong mỗi bước của quy trình 7 bước được quy định tại Quyết định số 83/2008/QĐ-BGDĐT ngày 31/12/2008 của Bộ GD&ĐT ban hành về quy trình và chu kỳ kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục phổ thông. Dẫn đến những hạn chế, bất cập của từng khâu trong thời gián qua, như: + Hội đồng tự đánh giá (thực hiện lần đầu tiên năm 2009): số lượng (17/15) dư thừa quy định, nhưng chất lượng lại thiếu đảm bảo; về Phó Chủ tịch HĐ lại có tới 2 người (2/1)- thừa 1; Thư ký HĐ là người ngang tầm nhưng lại nhiều việc, thiếu thời gian tập trung tổng hợp mô tả hiện trạng, + Xây dựng kế hoạch tự đánh giá: thiếu tính thực tế; Cơ sở vật chất, thiết bị và tài chính chưa đáp ứng tốt theo yêu cầu; + Viết báo cáo tự đánh giá: chưa tuân thủ quy định như viết một báo cáo khoa học; phần lớn cách hành văn, văn phong không theo thể thức văn bản hành chính và trôi chảy nghiêm trọng hơn là việc xác định nội hàm của chỉ số thuộc tiêu chuẩn chưa đạt, còn trình bày lan man, không đi thẳng vào việc mô tả nội hàm của chỉ số và trả lời các câu hỏi, - Cũng từ việc xem nhẹ bước nghiên cứu, tổ chức học tập văn bản chỉ đạo, cũng như khâu tư vấn, tham mưu, tuyên truyền về công tác đánh giá và kiểm định chất lượng giáo dục của lãnh đạo nhà trường nên phần lớn các thành viên trong nhà trường cũng như đại diện các ban ngành, đoàn thể địa phương chưa hiểu đầy đủ về mục đích ý nghĩa, tầm quan trọng, về kế hoạch thực hiện và những nguyên tắc, quy trình tiến hành cần phải đảm bảo; thậm chí một số thuật ngữ, từ ngữ cũng chưa hiểu đúng nghĩa về nó, chẳng hạn như: + Từ ngữ “ chất lượng trường THCS ” thường được hiểu là: chất lượng văn hóa và hạnh kiểm; họ đâu có hiểu theo nghĩa đầy đủ, bao gồm một tập hợp các vấn đề cốt lõi của nhà trường được quy định tại bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng của Bộ GD&ĐT, như: Tổ chức và quản lý; Chiến lược phát triển; Cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên, học sinh; Thực hiện chương trình và các hoạt động giáo dục; Tài chính và cơ sở vật chất; Quan hệ giữa nhà trường, gia đình và xã hội; Kết quả rèn luyện và học tập của học sinh mà mỗi trường phải đáp ứng; + Hay từ ngữ “ Kiểm định chất lượng trường THCS” thường được hiểu là: những việc làm của tổ chức Thanh tra (toàn diện) cấp trên đối với nhà trường; cá biệt có lãnh đạo địa phương đồng nhất từ này với “ xây dựng trường đạt chuẩn Quốc gia”; + Và đặt biệt từ ngữ “ Tự đánh giá của trường THCS” thường được hiểu là: việc tự kiểm tra toàn diện của nhà trường về việc thực hiện nhiệm vụ năm học .v.v Không hiểu đầy đủ hết bản chất, phương pháp, mục đích của việc làm (tự đánh giá về nhà trường). Đó là: hoạt động tự xem xét, tự kiểm tra, đánh giá của nhà trường (THCS) căn cứ vào tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục ( Theo Công văn Số 140/KTKĐCLGD ngày 10/3/2010 của Cục khảo thí và Kiểm định chất lượng giáo dục) để chỉ ra các điểm mạnh, điểm yếu, xây dựng kế hoạch cải tiến chất lượng và các biện pháp thực hiện nhằm đáp ứng các tiêu chuẩn chất lượng giáo dục do Bộ GD&ĐT quy định. - Về thông tin (TT) và minh chứng (MC) thuộc nội hàm một chỉ số của tiêu chuẩn, theo quy định thường là phải có ít nhất từ 2 đến 4 năm về trước ( kể từ năm tự đánh giá), chứ không phải chỉ tại năm tự đánh giá, trong khi đó có một số hồ sơ sau mỗi năm học không thuộc diện quy định đưa vào lưu trữ, đơn cử như: Kế hoạch chủ nhiệm, Sổ chủ nhiệm lớp, Sổ dự giờ của GV, Biên bản họp lớp, họp tổ,; đó là chưa nói đến những nội dung yêu cầu cần phải thể hiện đầy đủ trong Báo cáo tổng kết năm học hằng năm như trong đó có nội dung: Tổ chuyên môn rà soát, đánh giá để cải tiến các biện pháp thực hiện nhiệm vụ được giao; CBGVNV và học sinh được tạo điều kiện khai thác thông tin để phục vụ các hoạt động giáo dục; Các GVCN có kế hoạch chủ nhiệm, sổ chủ nhiệm và hoàn thành các nhiệm vụ được giao; Nhà trường tổ chức rút kinh nghiệm về sự phối hợp giữa nhà trường với tổ chức đoàn thể trong và ngoài nhà trường, tổ chức xã hội- nghề nghiệp, doanh nghiệp và cá nhân trong các hoạt động giáo dục.v.v Nói chung những yêu cầu quy định về TT và MC cần thu thập có những điểm bất cập, khó tìm được, nhất là trong Báo cáo tổng kết năm học. Vì trong thực tế các mẫu Báo cáo tổng kết năm học hằng năm của Ngành từ trước tới nay, chưa có mẫu nào đề cập đầy đủ các chi tiết và đảm bảo đến như thế. Mặt khác đội ngũ CBGVNV không ổn định, thường xuyên luân chuyển, cho nên việc tìm kiếm, hệ thống, phục hồi thông tin gặp không ít khó khăn, đó là chưa nói đến trường hợp Hiệu trưởng nhà trường là người mới được điều động hoặc bổ nhiệm đến. Với một thực trạng như trên quả là rất khó cho người Hiệu trưởng- người tổ chức, chỉ đạo thực hiện công tác đánh giá và kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục nói chung và kiểm định chất lượng THCS nói riêng. 2.3. Giới hạn nghiên cứu của đề tài: Theo chỉ đạo của Bộ GD&ĐT đối với cơ sở giáo dục phổ thông, tất cả đều phải tiến hành thực hiện KĐCLGD; mỗi bậc học ngoài những văn bản chỉ đạo chung, còn có những hướng dẫn riêng. Là Hiệu trưởng của một trường THCS thuộc vùng ven của Thành phố, do vậy, đề tài được thực hiện của tôi đối với cơ sở giáo dục phổ thông là trường Trung học cơ sở, thuộc vùng ven thành. 3. Cơ sở lí luận: Tự đánh giá trường trung học cơ sở là khâu đầu tiên trong quy trình kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục
File đính kèm:
skkn_mot_so_bien_phap_to_chuc_thuc_hien_co_hieu_qua_cong_tac.pdf