SKKN Một số biện pháp quản lí chỉ đạo việc duy trì sĩ số trong nhà trường đạt hiệu quả
Trường tiểu học Tấn Tài 1 cũng không ngoại lệ, hàng năm trường đều tiếp nhận
một phần số học sinh có hộ khẩu ở địa phương, phần lớn còn lại do nhiều nơi ngoài thành
phố đến địa phương tạm trú để làm ăn, sinh sống. Đại bộ phận cha mẹ học sinh chú trọng
đến kế sinh nhai nên ít quan tâm đến việc học hành, việc giáo dục con cái ở nhà. Thậm chí
nhiều phụ huynh khoán trắng việc giáo dục cho nhà trường, cho nơi nuôi trẻ, chỉ biết cho
con tiền chứ không hề quan tâm, gần gũi con cái nên không phát hiện những biểu hiện tiêu
cực trong các cháu, nhất là các cháu ham chơi, mê games online.
Nhiều gia đình cha mẹ làm thuê, kinh tế khó khăn; một số gia đình lại có cuộc sống
không hạnh phúc, ảnh hưởng tâm lí của trẻ, các em muốn bức phá, thoát khỏi mái gia đình
mà có em đã từng tâm sự với tôi “như địa ngục”. Một số em chỉ có mẹ, không cha (con
ngoại hôn), việc làm của mẹ không ổn định hay gây nợ nần, dẫn con bỏ đi nơi khác.v.v.
Đó là những guyên nhân có thể dẫn đến việc bỏ học của học sinh.
Trên đây là những thực trạng nhà trường phải gánh lấy trong nhiều năm qua. Vậy
làm thế nào để khắc phục tình trạng học sinh bỏ học, vận động học sinh bỏ học ra lớp đạt
hiệu quả nhằm thực hiện tốt công tác duy trì sĩ số trong nhà trường cũng như ở địa
phương? Câu hỏi này đặt ra cho người làm công tác quản lí chúng tôi phải tìm cách tháo
gỡ mà không được chạy theo thành tích. Chính vì vậy, trong những năm qua tôi đã tiến
hành nhiều biện pháp quản lí chỉ đạo công tác duy trì sĩ số. Sau đây là “một số biện pháp
quản lí chỉ đạo việc duy trì sĩ số trong nhà trường” tôi đã thực hiện rất hiệu quả.
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Một số biện pháp quản lí chỉ đạo việc duy trì sĩ số trong nhà trường đạt hiệu quả

PHÒNG GD-ĐT TP.PHAN RANG-TC TRƯỜNG TIỂU HỌC TẤN TÀI 1 CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP QUẢN LÍ CHỈ ĐẠO VIỆC DUY TRÌ SĨ SỐ TRONG NHÀ TRƯỜNG ĐẠT HIỆU QUẢ Họ và tên tác giả: Dương Thị Diệu Hoà Chức vụ: Hiệu trưởng Trường tiểu học Tấn Tài 1 I. HOÀN CẢNH NẢY SINH ÁP DỤNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM: Để thực hiện tốt mục tiêu giáo dục, một trong những nhiệm vụ quan trọng Ngành đặt ra cho mỗi địa phương, mỗi đơn vị trường học chính là công tác đảm bảo duy trì sĩ số. Từ khi được điều về làm công tác quản lí tại Trường tiểu học Tấn Tài 1, tôi thấy được những khó khăn mà nhà trường cũng như chính quyền địa phương phải trải qua đó chính là công tác vận động học sinh bỏ học ra lớp nhằm đảm bảo duy trì sĩ số. Phường Tấn Tài có ba trường tiểu học đóng trên địa bàn, mỗi trường đều có số lượng con em trong địa phương không đến một nửa tổng số học sinh toàn trường. Trường tiểu học Tấn Tài 1 cũng không ngoại lệ, hàng năm trường đều tiếp nhận một phần số học sinh có hộ khẩu ở địa phương, phần lớn còn lại do nhiều nơi ngoài thành phố đến địa phương tạm trú để làm ăn, sinh sống. Đại bộ phận cha mẹ học sinh chú trọng đến kế sinh nhai nên ít quan tâm đến việc học hành, việc giáo dục con cái ở nhà. Thậm chí nhiều phụ huynh khoán trắng việc giáo dục cho nhà trường, cho nơi nuôi trẻ, chỉ biết cho con tiền chứ không hề quan tâm, gần gũi con cái nên không phát hiện những biểu hiện tiêu cực trong các cháu, nhất là các cháu ham chơi, mê games online. Nhiều gia đình cha mẹ làm thuê, kinh tế khó khăn; một số gia đình lại có cuộc sống không hạnh phúc, ảnh hưởng tâm lí của trẻ, các em muốn bức phá, thoát khỏi mái gia đình mà có em đã từng tâm sự với tôi “như địa ngục”. Một số em chỉ có mẹ, không cha (con ngoại hôn), việc làm của mẹ không ổn định hay gây nợ nần, dẫn con bỏ đi nơi khác.v.v.. Đó là những guyên nhân có thể dẫn đến việc bỏ học của học sinh. Trên đây là những thực trạng nhà trường phải gánh lấy trong nhiều năm qua. Vậy làm thế nào để khắc phục tình trạng học sinh bỏ học, vận động học sinh bỏ học ra lớp đạt hiệu quả nhằm thực hiện tốt công tác duy trì sĩ số trong nhà trường cũng như ở địa phương? Câu hỏi này đặt ra cho người làm công tác quản lí chúng tôi phải tìm cách tháo gỡ mà không được chạy theo thành tích. Chính vì vậy, trong những năm qua tôi đã tiến hành nhiều biện pháp quản lí chỉ đạo công tác duy trì sĩ số. Sau đây là “một số biện pháp quản lí chỉ đạo việc duy trì sĩ số trong nhà trường” tôi đã thực hiện rất hiệu quả. II. QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP: Từ năm học 2007-2008 nhà trường quyết tâm nỗ lực phấn đấu đạt Trường tiểu học chuẩn quốc gia mức độ 1, một trong những tiêu chí cần đạt đó là tỉ lệ duy trì sĩ số với 98%. Trong ba năm trở lại đây (từ năm học 2008-2009), công tác duy trì sĩ số tiếp tục được phấn đấu với chỉ tiêu cao hơn (100%) do nhà trường đăng kí thi đua Tập thể lao động xuất sắc. Để đạt được chỉ tiêu phấn đấu, nhà trường đã đề ra nhiều biện pháp khắc phục tình trạng học sinh bỏ học nhằm đảm bảo duy trì sĩ số, góp phần hiệu quả trong công tác phổ cập giáo dục tiểu học-xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi nói riêng và trong sự nghiệp giáo dục nói chung. Sau đây là những giải pháp, biện pháp tôi đã trải nghiệm thành công trong những năm qua: 1. Nâng cao nhận thức của đội ngũ, cộng đồng về công tác duy trì sĩ số. Để ngăn ngừa tình trạng học sinh bỏ học vì bất cứ nguyên nhân nào, mỗi nhà trường cần phải làm tốt công tác giáo dục, tuyên truyền trong đội ngũ giáo viên, cha mẹ học sinh, nhân dân thực hiện tốt công tác phổ cập giáo dục tiếu học-chống mù chữ, phổ cập giáo dục đúng độ tuổi. * Đối với chi bộ nhà trường: Lãnh đạo nhà trường hoàn thành tốt nhiệm vụ năm học, đặc biệt chú trọng công tác duy trì sĩ số. Tổ chức sinh hoạt chuyên đề về tìm biện pháp khắc phục tình trạng học sinh bỏ học. * Đối với nhà trường: Phải giúp cho mỗi thầy cô giáo có nhận thức đúng đắn về trách nhiệm của bản thân trong công tác phổ cập giáo dục tiếu học-chống mù chữ, phổ cập giáo dục đúng độ tuổi, nhất là đảm bảo duy trì sĩ số, không để học sinh bỏ học vì học yếu. Đưa công tác duy trì sĩ số vào nội dung khống chế trong thi đua đối với mỗi giáo viên chủ nhiệm. Nhà trường phải quan hệ chặt chẽ với Ban đại diện cha mẹ học sinh, kịp thời phản ánh đến cha mẹ học sinh tình hình học tập, rèn luyện của học sinh, các biểu hiện bất thường xảy ra ở trường lớp, ngoài xã hội. Kịp thời phối kết hợp giáo dục học sinh vi phạm đạo đức, học sinh cá biệt. Làm tốt công tác tham mưu với cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương về công tác giáo dục; phối hợp chặt chẽ với các đoàn thể chính trị-xã hội tại địa phương trong việc vận động học sinh ra lớp. * Đối với cha mẹ học sinh: Phải nhận thức được gia đình là hạt nhân trong xã hội, gia đình có tốt thì xã hội mới phát triển; phải hiểu được việc giáo dục con cái là trách nhiệm chính của gia đình. Do đó gia đình phải có trách nhiệm phối hợp với nhà trường và xã hội giáo dục con cái nên người, không nên ỷ lại hoặc khoán trắng cho nhà trường. * Đối với địa phương: Phải quan tâm giúp đỡ nhà trường; lãnh chỉ đạo tốt công tác giáo dục ở địa phương. Kịp thời chỉ đạo các tổ chức đoàn thể, ban ngành phối hợp với nhà trường trong việc vận động học sinh ra lớp. Nâng cao nhận thức của đội ngũ cán bộ, giáo viên và cộng đồng về đảm bảo duy trì sĩ số là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong công tác giáo dục. Và khi học sinh đã nghỉ học thì việc tìm hiểu nguyên nhân bỏ học của các em lại là việc làm cấp thiết của nhà trường để vận động các em tiếp tục đến trường. 2. Xác định nguyên nhân học sinh bỏ học. Học sinh bỏ học thường do nhiều nguyên nhân khác nhau. Để vận động học sinh ra lớp thành công, việc đầu tiên của nhà trường là phải tìm hiểu, xác định học sinh bỏ học vì nguyên nhân gì? Xác định đúng nguyên nhân bỏ học của học sinh, ta mới có biện pháp vận động phù hợp và mang lại hiệu quả cao. Việc tìm hiểu nguyên nhân bỏ học phải dựa trên nhiều nguồn thông tin. Chúng ta không nên chủ quan tin ngay thông tin đầu tiên từ phía gia đình, mà cần lắng nghe từ nhiều phía như học sinh trong lớp, giáo viên trong trường, gia đình, cộng đồng. Đặc biệt là từ đối tượng bỏ học, cần quan sát kĩ biểu hiện qua nét mặt, cử chỉ, lời nói của em; nhạy bén nắm bắt nguyên nhân chính để phối hợp vận động thành công. Như trường hợp em Kim Quyên học lớp 5C, khi em nghỉ học, giáo viên chủ nhiệm đến nhà vận động nhưng không được với lí do mẹ em đã bỏ đi về Đồng Nai do làm ăn thất bại. Hiệu trưởng cùng Hội trưởng phụ nữ phường đã đến gia đình tìm hiểu, vận động em ra lớp nhưng gia đình (một người bà con mà gia đình em tạm trú) cho biết mẹ em đã quay về dẫn em vào Đồng Nai. Qua tìm hiểu từ nhân dân xung quanh, từ các bạn học sinh gần nhà em sống, chúng tôi biết được em vẫn còn ở đó, hiện đang giữ con nhỏ cho chủ nhà mỗi sáng nên không thể đến trường. Tôi đã tham mưu chính quyền địa phương nhờ các anh công an giúp đỡ, mời gia đình đang nuôi em lên làm việc, nhờ đó mới được tiếp xúc trực tiếp với em Quyên. Qua trao đổi, quan sát từng biểu hiện của em chúng tôi đã xác định nguyên nhân chính làm em nghỉ học đó là mẹ bỏ đi, gia đình này nuôi em với điều kiện em phải giữ con nhỏ cho họ. Nhờ phát hiện nguyên nhân chính, chúng tôi đã tìm cách vận động được em đến trường học. Sau khi đã xác định được nguyên nhân chính làm học sinh bỏ học, chúng ta phải có biện pháp tuyên truyền, vận động phù hợp. Có những biện pháp chúng tôi tiến hành ngay sau khi xác định nguyên nhân bỏ học nhưng cũng có những biện pháp chúng tôi thực hiện ngay từ đầu năm học nhằm ngăn ngừa, khắc phục tình trạng học sinh bỏ học. Sau đây tôi xin trình bày một số biện pháp khắc phục tình trạng học sinh bỏ học cũng như các biện pháp vận động học sinh bỏ học ra lớp hiệu quả. 3. Một số biện pháp khắc phục tình trạng học sinh bỏ học: 3.1. Các biện pháp khắc phục tình trạng học sinh bỏ học do hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn: Để ngăn ngừa học sinh bỏ học do hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn, nhà trường đã có nhiều biện pháp giúp đỡ học sinh kịp thời, hiệu quả: - Vận động cán bộ, giáo viên, nhân viên (CBVC) đóng góp hàng tháng để bảo trợ học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Bắt đầu từ năm học 2007-2008 đến nay, mỗi CBVC tự nguyện hỗ trợ 3.000 đồng/tháng để giúp đỡ học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn vượt khó. Mỗi năm trường họp xét hỗ trợ cho 2 em, tính đến nay CBVC nhà trường đã luân phiên bảo trợ 8 em với tổng số tiền 3.609.000 đồng. - Vận động học sinh tiết kiệm quà sáng để xây dựng quỹ “Vì bạn nghèo”. Nguồn quỹ này được sử dụng mua tặng quần áo, đồ dùng học tập cho học sinh nghèo, học sinh khuyết tật, học sinh có hoàn cảnh khó khăn vào dịp đầu năm học; tặng quà Tết Trung thu, Tết Nguyên đán và tặng sách vở cho các em vào cuối mỗi năm học. Tổng số tiền vận động được 18.583.000 đồng. Trong đó: Năm học 2007-2008 vận động được: 3.916.500 đồng Năm học 2008-2009: 3.465.500 đồng Năm học 2009-2010: 4.766.000 đồng Từ đầu năm học 2010-2011 đến nay: 6.435.000 đồng - Vận động các nhà hảo tâm, các cơ quan đóng trên địa bàn hỗ trợ giúp đỡ học sinh nghèo, khuyết tật vượt khó thông qua chương trình “Thắp sắng ước mơ”, phát học bổng cho những em đạt thành tích. - Tổ chức các nhóm học sinh cùng tổ dân phố trong mỗi lớp học để các em kịp thời giúp các bạn có hoàn cảnh khó khăn trong công việc và cùng học nhóm ở nhà. 3.2. Các biện pháp khắc phục tình trạng học sinh bỏ học do hoàn cảnh gia đình: Bên cạnh những gia đình học sinh có hoàn cảnh kinh tế khó khăn như đã nêu trên, nhà trường còn không ít những em học sinh gia đình có hoàn cảnh khá phức tạp như cha mẹ li hôn, cha có người phụ nữ khác, mẹ làm nghề không lành mạnh Trong những năm qua, trường đã đương đầu nhiều trường hợp khó khăn trong công tác vận động học sinh bỏ học
File đính kèm:
skkn_mot_so_bien_phap_quan_li_chi_dao_viec_duy_tri_si_so_tro.pdf