SKKN Một số biện pháp giúp học sinh Lớp 3 Trường THCS mã đà khắc phục lỗi âm đầu, dấu thanh trong Phân môn Chính tả
Trường Mã Đà- huyện Vĩnh Cửu- nơi tôi đang công tác thuộc vùng đặc biệt
khó khăn, kinh tế nghèo nàn. Phụ huynh thường xuyên sống nay đây mai đó, làm
ăn theo mùa vụ. Do vậy, học sinh chủ yếu là dân các nơi đến sinh sống, việc phát
âm giọng địa phương là rất phổ biến. Chính điều này đã gây khó khăn cho bản
thân tôi và các đồng nghiệp trong việc rèn kĩ năng phát âm chuẩn cho các em dẫn
đến việc rèn kĩ năng viết đúng chính tả là khó thực hiện.
Việc mắc lỗi trong khi viết Chính tả đã phần nào ảnh hưởng tới kết quả học
tập của các em ở môn Tiếng Việt nói riêng và các môn học khác nói chung. Vì
vậy, nhằm giúp học sinh khắc phục nhược điểm này, tôi đã nghiên cứu: “Một số
biện pháp giúp học sinh lớp 3 Trường trung học cơ sở Mã Đà khắc phục lỗi âm
đầu, dấu thanh trong phân môn Chính tả”.
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Một số biện pháp giúp học sinh Lớp 3 Trường THCS mã đà khắc phục lỗi âm đầu, dấu thanh trong Phân môn Chính tả

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 3 TRƯỜNG THCS MÃ ĐÀ KHẮC PHỤC LỖI ÂM ĐẦU, DẤU THANH TRONG PHÂN MÔN CHÍNH TẢ I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Ngôn ngữ âm thanh trong một thời gian dài đã trở thành công cụ duy nhất để con người trao đổi, truyền đạt với nhau. Tuy nhiên, ngôn ngữ âm thanh có mặt hạn chế về không gian và thời gian. Đó là lí do vì sao ngày nay chúng ta không nghe được tiếng nói của các vị anh hùng dân tộc xưa như: bà Trưng bà Triệu, Quang Trung, Nguyễn Trãi, Để khắc phục hai mặt hạn chế này, con người đã tìm ra một hình thức thông tin mới: thông tin bằng chữ. Chữ viết là đại diện của lời nói. Tuy nhiên, nếu chữ viết bị sai lỗi chính tả sẽ gây khó khăn cho người đọc, người nghe; làm hiểu sai lệch về nghĩa. Vì thế, muốn mọi người hiểu đúng chúng ta cần viết đúng. Và phân môn Chính tả trong nhà trường là môn học giúp học sinh hình thành năng lực và thói quen viết đúng chính tả, rộng hơn là năng lực và thói quen viết đúng tiếng Việt văn hóa, tiếng Việt chuẩn mực. Tuy nhiên, thực tế cho thấy cách phát âm ở mỗi nơi có sự khác nhau và thói quen nói sao- viết vậy đã gây khó khăn trong việc “nghe và viết” sao cho đúng đối với chính tả Việt Nam là rất rõ nét. Trường Mã Đà- huyện Vĩnh Cửu- nơi tôi đang công tác thuộc vùng đặc biệt khó khăn, kinh tế nghèo nàn. Phụ huynh thường xuyên sống nay đây mai đó, làm ăn theo mùa vụ. Do vậy, học sinh chủ yếu là dân các nơi đến sinh sống, việc phát âm giọng địa phương là rất phổ biến. Chính điều này đã gây khó khăn cho bản thân tôi và các đồng nghiệp trong việc rèn kĩ năng phát âm chuẩn cho các em dẫn đến việc rèn kĩ năng viết đúng chính tả là khó thực hiện. Việc mắc lỗi trong khi viết Chính tả đã phần nào ảnh hưởng tới kết quả học tập của các em ở môn Tiếng Việt nói riêng và các môn học khác nói chung. Vì vậy, nhằm giúp học sinh khắc phục nhược điểm này, tôi đã nghiên cứu: “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 Trường trung học cơ sở Mã Đà khắc phục lỗi âm đầu, dấu thanh trong phân môn Chính tả”. II. TỔ CHỨC THỰC HIỆN: 1. Cơ sở lí luận Thuật ngữ Chính tả hiểu theo nghĩa gốc là “phép viết đúng” hoặc “lối viết hợp với chuẩn”. Chính tả là hệ thống các quy tắc về cách viết thống nhất cho các từ của một ngôn ngữ, cách viết hoa tên riêng, cách phiên âm tên riêng nước ngoài, Giữa cách đọc và cách viết thống nhất với nhau. Đọc thế nào thì viết thế ấy tức là khi dạy Chính tả chúng ta phải đọc đúng chuẩn để cho học sinh viết đúng. Cơ chế của cách viết đúng là xác lập mối liên hệ giữa âm thanh và chữ viết. Tuy nhiên, để thực hiện được theo nguyên tắc đó là không dễ vì cách phát âm thực tế của mỗi phương ngữ đều có sự sai lệch so với chính âm nên phương châm “nghe sao viết vậy” là khó thực hiện được. 2. Thực trạng vấn đề Trường Mã Đà chúng tôi cũng có đủ học sinh của cả ba miền Bắc- Trung- Nam. Vì thế trong viết Chính tả, học sinh trường tôi hầu như mắc gần hết các lỗi vi phạm chính tả. Nhưng trong phạm vi đề tài này, tôi chỉ đưa ra những lỗi về phụ âm đầu (ch/ tr; s/ x; l/ n; d/ gi; ...) và lỗi viết dấu thanh (hỏi- ngã) mà học sinh lớp tôi thường mắc phải. Qua thống kê hằng năm cho thấy về tỉ lệ mắc lỗi của học sinh: Học sinh mắc lỗi Năm học 2009- 2010 ss: 24 Năm học 2010- 2011 ss: 26 Năm học 2011- 2012 ss: 23 Về phụ âm đầu 15/ 24 (62,5%) 18/ 26 (69,2%) 12/ 23 (52,2%) Về dấu thanh 9/ 24 (37,5%) 10/ 26 (38,5%) 7/ 23 (30,4%) Trong thực tế giảng dạy phân môn Chính tả cho học sinh, tôi đã tìm hiểu và nhận thấy một số nguyên nhân chính sau: - Đa số học sinh đều là dân ở các nơi đến sinh sống, việc phát âm giọng địa phương là rất phổ biến. - Học sinh chưa nắm vững chính âm, chính tự; chưa nhớ kĩ mặt chữ, quy tắc viết,... Khi đọc, học sinh thường đánh vần chậm và rời rạc, đọc sai dấu thanh, sai phụ âm đầu, vần, ngắt nghỉ hơi tự do. Đây là một trong những nguyên nhân quan trọng làm ảnh hưởng đến kĩ năng viết của các em. - Ý thức tự học, tự rèn viết của học sinh chưa tốt. Mặt khác, đa số phụ huynh ít quan tâm đến kĩ năng viết của con em mình trong quá trình học tập. - Ngoài ra, trong giảng dạy giáo viên chưa thực sự quan tâm đến việc rèn kĩ năng viết đúng chính tả cho học sinh. Những biện pháp khắc phục đưa ra chưa hiệu quả, chưa có sự đầu tư, đổi mới trong giảng dạy, .... Chính những điều này đã làm cho chất lượng môn học Chính tả nói riêng hay bộ môn Tiếng Việt nói chung bị giảm sút rất nhiều, đây là một trong những vấn đề mà mỗi người giáo viên đứng lớp như tôi luôn trăn trở. 3. Biện pháp thực hiện Từ những biện pháp đã trải nghiệm, qua sự đóng góp ý kiến của bạn bè- đồng nghiệp và tìm hiểu qua các phương tiện thông tin, tôi đã áp dụng và dần nhận thấy kết quả tiến bộ của học sinh lớp mình. 3.1 Thực hiện một số cách rèn luyện giúp viết đúng chính tả 3.1.1 Luyện phát âm a. Việc rèn cách phát âm đã được tôi thực hiện thường xuyên trong tất cả các môn học, đặc biệt là phân môn Tập đọc. Vì đa số các bài viết Chính tả đều được trích từ một bài Tập đọc mà học sinh đã học trong chủ điểm tuần. Do đó, tôi đã lựa chọn các loại âm- vần, dấu thanh mà học sinh thường phát âm sai trong từng bài Tập đọc để luyện cho các em phát âm đúng. Ví dụ: Đa số học sinh lớp tôi thường phát âm sai s/ x, tr/ ch, thanh hỏi, thanh ngã. Do đó, ở tất cả các bài Tập đọc, tôi luôn quan tâm lựa chọn những từ ngữ có cặp phụ âm đầu s/ x, tr/ ch và những từ ngữ có chứa thanh hỏi, ngã để luyện. - Để sửa lỗi phát âm l/ n, tôi đã hướng dẫn học sinh đọc thuộc, đọc tốt một vài câu thơ chỉ có toàn âm “l” hay “n” hoặc cả hai âm “l và n”; trong đó, qua sự tích cực rèn luyện câu thơ sau đem lại hiệu quả cao nhất: “Lúa nếp là lúa nếp làng Lúa lên lớp lớp lòng nàng lâng lâng ”. - Sửa phát âm thanh hỏi/ ngã, tôi luyện cho học sinh đọc câu: “Dẫm lên mỡ, ngã không ai đỡ”. Quá trình rèn phát âm là lâu dài, vì thế cần có sự kiên trì luyện tập mới đem lại kết quả. b. Với những học sinh đọc yếu, tôi đã hướng dẫn thật tỉ mỉ bằng cách đọc nhấn giọng hoặc kết hợp khẩu hình miệng trong quá trình rèn phát âm cho các em. Ví dụ: + Để luyện phát âm đối với âm “tr”- cần đưa lưỡi lên vòm miệng; âm “s”- đọc cong lưỡi, phát hơi; âm “r”- đọc cong lưỡi, lấy hơi; âm “gi”- đọc xì hơi ra; + Đối với học sinh hay sai dấu hỏi/ ngã thì những tiếng có thanh ngã thường được đọc nhấn giọng và dài hơi hơn: Ví dụ: trầm bổng- bỗng chốc, buồn bã- bả vai, ... - Để học sinh phát âm tốt giữa hai thanh hỏi - ngã, tôi đã cho học sinh luyện phát âm các tiếng có cùng thanh, cùng vần với tên gọi thanh. Ví dụ: + Thanh hỏi: sỏi, thỏi, gỏi, lỏi, cỏi (kém cỏi). + Thanh ngã: bã (buồn bã), đã, giã (giã gạo). c. Mặt khác, việc luyện phát âm chuẩn còn được tôi thực hiện trong tất cả các hoạt động có liên quan đến giao tiếp. Để làm tốt được điều này, tôi đã chọn cử một số học sinh có giọng phát âm tương đối hoặc chuẩn để làm mẫu trước lớp trong mỗi tiết học và hỗ trợ tôi trong việc rèn sửa phát âm cho bạn mình trong quá trình giao tiếp. Nếu thấy bạn phát âm sai các em sẽ nhắc nhở và hướng dẫn bạn chỉnh sửa. Chính những việc làm này đã giúp học sinh ý thức hơn được tầm quan trọng của tiếng nói phổ thông. Qua đó, các em đã luôn cố gắng thực hiện phát âm chuẩn ở mọi lúc, mọi nơi. 3.1.2 Phân biệt tiếng- từ qua phân tích, so sánh Với những từ ngữ khó, dễ lẫn tôi đã kết hợp luyện đọc với phân tích cấu tạo tiếng, so sánh các tiếng đó với nhau (về âm- vần - dấu thanh) để tìm ra những điểm khác nhau giúp học sinh dễ ghi nhớ. Ví dụ: Tiếng “dành” và “giành”, tôi hướng dẫn học sinh: + dành = (âm đầu) d + (vần) anh + thanh huyền. Viết thành “dành” khi ta muốn giữ hoặc để lại cái (điều) gì đó: dành dụm, để dành, . + giành = (âm đầu) gi + (vần) anh + thanh huyền. Viết thành “giành” khi nói đến sự nỗ lực, cố gắng để đạt được điều gì đó: giành giải nhất, giành đọc lập, giành giựt, . 3.1.3 Giải nghĩa từ Muốn viết đúng chính tả, ngoài việc nghe phải gắn với việc hiểu nội dung của từ, cụm từ, câu, ... Việc giải nghĩa từ không chỉ được thực hiện trong các phân môn Tập đọc, Luyện từ và câu mà nó cũng rất cần thiết trong dạy học Chính tả. Đặc biệt khi học sinh không thể phân biệt từ khó dựa vào phát âm hoặc phân tích cấu tạo tiếng. Ví dụ: Tiếng “trông” và “chông” muốn dùng đúng, người viết phải phân biệt được sự khác nhau về nghĩa của hai từ này từ đó rút ra cách viết đúng chính tả: + Viết là “trông” khi muốn nói về sự hi vọng, chờ đợi: trông mong, trông ngóng, trông cậy,... * Chỉ hoạt động (nhìn): trông coi, trông nom, trông chừng,... + Viết là “chông” khi nói về sự vật: chông tre, hầm chông,... * Chỉ sự khó khăn, nguy hiểm: chông gai * Nói đến sự không vững chãi, không chắc chắn: chông chênh Với những từ nhiều tiếng, từ nhiều nghĩa tôi đã đặt từ đó trong văn cảnh cụ thể để gợi nghĩa từ hoặc giúp học sinh giải nghĩa từ. 3.1.4 Củng cố, khắc sâu mẹo luật, quy tắc chính tả Việc xây dựng các quy tắc chính tả, các “mẹo chính tả” giúp học sinh ghi nhớ một cách khái quát, có hệ thống: - Thường xuyên nhắc nhở học sinh ghi nhớ quy tắc: chữ ghi âm đầu “k, gh, ngh” đứng trước các nguyên âm i, e, ê, ia, iê đã được học từ lớp 1. - Ngoài ra, tôi còn hướng dẫn các em nắm chắc những “mẹo” sau: + Phân biệt “tr” hay “ch”: Nếu chúng là các từ chỉ đồ vật trong gia đình, tên con vật hoặc chỉ người trong mối quan hệ họ hàng thì đa số được viết là “ch”. Ví dụ: cha, chú, cháu, ...; chăn, chiếu, chậu, chén, ...(ngoại lệ: tráp); chồn, chuột, chó, chuồn chuồn, châu chấu, .... Nếu chúng là từ chỉ vị trí thì ta ghi “tr”: Ví dụ: trên, trong, trước, ... + Phân biệt “s” hoặc “x”: Nếu chúng là từ chỉ tên cây, tên con vật hoặc tên chỉ các hiện tượng thiên nhiên thì ta ghi “s”: Ví dụ: sen, sắn, sung, su su, sầu riêng, ...; sâu, sẻ, sên, cá sấu, sư tử, ...(ngoại lệ: vịt xiêm); (ngôi) sao, (hạt) sương, sông, suối, ... Nếu chúng là tên các thức ăn và đồ dùng l
File đính kèm:
skkn_mot_so_bien_phap_giup_hoc_sinh_lop_3_truong_thcs_ma_da.pdf