SKKN Vận dụng bản đồ tư duy vào một số tiết dạy kiểu bài nói, viết theo chủ điểm ở Phân môn Tập Làm Văn Lớp 3
Do đặc điểm tâm lí lứa tuổi nên đa số bài văn của học sinh lớp 3 có
ý tưởng chưa phong phú, sáng tạo, các em thường trình bày hạn hẹp trong
khuôn khổ nhất định. Nếu trong một bài Tập làm văn, học sinh chỉ biết diễn
đạt nội dung bằng những gì đã quan sát; hoặc thực hành một cách chính
xác theo các gợi ý; bài làm như thế tuy đủ ý nhưng không có sức hấp dẫn,
lôi cuốn người đọc, người nghe. Vì vậy, với từng đề bài giáo viên nên có
những câu hỏi gợi ý, khuyến khích học sinh liên tưởng, tưởng tượng thêm
những chi tiết một cách tự nhiên, chân thật và hợp lí qua việc sử dụng các
biện pháp so sánh, nhân hoá, để từ đó học sinh biết trình bày bài văn giàu
hình ảnh, sinh động, sáng tạo. Trí tưởng tượng, liên tưởng ở học sinh lứa
tuổi này rất hồn nhiên ngây thơ và ngộ nghĩnh, cho nên để rèn luyện kĩ
năng này cho học sinh, giáo viên có thể chuẩn bị những câu, đoạn văn hay
cho học sinh tham khảo, học hỏi làm phong phú thêm vốn kiến thức cho
các em.
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Vận dụng bản đồ tư duy vào một số tiết dạy kiểu bài nói, viết theo chủ điểm ở Phân môn Tập Làm Văn Lớp 3

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM VẬN DỤNG BẢN ĐỒ TƯ DUY VÀO MỘT SỐ TIẾT DẠY KIỂU BÀI NÓI, VIẾT THEO CHỦ ĐIỂM Ở PHÂN MÔN TẬP LÀM VĂN LỚP 3 A. ĐẶT VẤN ĐỀ Môn Tiếng Việt ở lớp 3 thống nhất với mục tiêu chung của Chương trình Tiếng Việt toàn cấp học là : - Hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi. Thông qua việc dạy và học môn Tiếng Việt, góp phần rèn luyện các thao tác của tư duy. - Cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về Tiếng Việt và những hiểu biết sơ giản về xã hội, tự nhiên và con người, về văn hoá, văn học của Việt Nam và của nước ngoài. - Bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của Tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tập làm văn là phân môn thực hành và rèn luyện tổng hợp bốn kỹ năng nghe – nói - đọc viết, có tính chất tích hợp các phân môn khác trong môn Tiếng Việt. Qua tiết Tập làm văn, học sinh có khả năng xây dựng một văn bản nói hoặc viết. Ngôn ngữ là công cụ để phát triển tư duy. Chính vì vậy hướng dẫn cho học sinh nói đúng, viết đúng, rèn luyện kĩ năng sử dụng ngôn ngữ là hết sức cần thiết. Nhiệm vụ đó phụ thuộc phần lớn vào việc dạy - học Tiếng Việt nói chung và phân môn Tập làm văn nói riêng. Trong chương trình Tập làm văn lớp 3, kiểu bài Nói, viết theo chủ điểm rèn luyện cho học sinh kĩ năng nói, viết, đồng thời cũng tạo điều kiện cho các em củng cố những hiểu biết về phạm vi hiện thực được phản ánh trong chủ điểm học tập. Năm học 2011 – 2012 thực hiện giảm tải một số nội dung ở một số môn học, bài học, trong đó có phân môn Tập làm văn lớp 3. Ở các tuần 11, 14, 16, không yêu cầu làm các bài tập nghe - kể (Bài tập1), giành thời gian cho hoạt động nói theo chủ điểm (Bài tập2); tuần 31, không yêu cầu làm bài tập 2, giành thời gian cho hoạt động nói về bảo vệ môi trường ở bài tập 1. Với thời lượng 40 phút cho một hoạt động nói theo chủ điểm, đó là điều kiện thuận lợi để giúp học sinh rèn kĩ năng nói, nhiều học sinh được tham gia trình bày trước lớp. Bản đồ tư duy còn gọi là sơ đồ tư duy, lược đồ tư duy, là hình thức ghi chép nhằm tìm tòi đào sâu, mở rộng một ý tưởng, tóm tắt những ý chính của một nội dung, hệ thống hoá một chủ đề bằng cách kết hợp việc sử dụng hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết. Đặc điểm tâm sinh lí học sinh Tiểu học thường dễ thuộc nhưng chóng quên, các em thường ghi nhớ nhanh nhờ vào quan sát hình ảnh sống động, nhiều màu sắc. Để giúp các em tiếp cận được với tri thức của nhân loại đòi hỏi người giáo viên phải đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh. Thay đổi từ việc dạy cho học sinh kiến thức là chính chuyển sang dạy cho học sinh cách học là chính. Làm thế nào để học sinh nói, viết được đoạn văn theo chủ điểm đúng yêu cầu đặt ra, đạt được mục tiêu của môn học? Để đạt được hiệu quả dạy học, qua tìm hiểu tài liệu, theo dõi trên các trang web dạy học, tôi mạnh dạn vận dụng bản đồ tư duy vào một số tiết dạy kiểu bài Nói, viết theo chủ điểm ở phân môn Tập làm văn lớp 3. B. NỘI DUNG Trong quá trình dạy một tiết Tập làm văn, để đạt mục tiêu đề ra bên cạnh việc đổi mới phương pháp dạy học của giáo viên, học sinh cần phải có vốn kiến thức ngôn ngữ về đời sống thực tế. Học tốt Tập làm văn sẽ giúp học sinh học tốt các môn học khác đồng thời giáo dục các em những tình cảm lành mạnh, trong sáng; rèn luyện khả năng giao tiếp và góp phần đắc lực vào việc giữ gìn, phát huy sự trong sáng của Tiếng việt, hình thành nhân cách con người Việt Nam. I. THỰC TRẠNG: 1. Thuận lợi: Với kiểu bài Nói, viết theo chủ điểm, để tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh, SGK thường đưa ra những đề tài gần gũi với các em và những đề tài ấy thường cũng là đề tài mở. Giáo viên luôn không ngừng học hỏi, đổi mới phương pháp dạy học, lựa chọn và tổ chức những hình thức luyện tập phù hợp mục tiêu dạy và học để dẫn dắt rèn luyện học sinh thực hành những bài văn nói – viết một cách độc lập, sáng tạo. Để giúp học sinh viết được những bài văn hay, ý tưởng phong phú, sáng tạo giáo viên luôn chú trọng rèn kĩ năng nói cho học sinh vì học sinh nói tốt sẽ trình bày bài viết tốt. Học sinh đã nắm vững kiến thức, kĩ năng từ các lớp dưới. Đây là cơ sở giúp các em học tốt phân môn Tập làm văn lớp ba. 2. Khó khăn: Tập làm văn là phân môn khó so với các phân môn khác của môn Tiếng Việt, vì vậy việc dạy – học ở phân môn này có những hạn chế nhất định. Trong việc rèn kĩ năng nói-viết cho học sinh, giáo viên có đầu tư nghiên cứu mục tiêu các tiết dạy để lựa chọn các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học sao cho phù hợp từng đối tượng học sinh, nhưng sự đầu tư chưa sâu nên hiệu quả dạy học phân môn Tập làm văn chưa cao. Dụng cụ trực quan thiếu, giáo viên chỉ nói suông nên học sinh không hiểu, không nắm bắt được thông tin vì vậy bài làm không đạt hiệu quả cao. Chất lượng giảng dạy ở phân môn Tập làm văn vẫn chưa đáp ứng được sự mong mỏi của xã hội. Đối với học sinh lớp 3, để giúp các em nói, viết được đoạn văn ngắn (5-7 câu) theo chủ điểm giáo viên thường gặp khó khăn khi hướng dẫn các em nói, viết thành câu, thành đoạn. Bởi vốn từ của các em chưa nhiều, kiến thực thực tế còn nhiều hạn chế. Một hạn chế nữa đó là do đặc điểm vùng miền, khả năng ngôn ngữ của học sinh không được lưu loát. Trong quá trình làm bài, nhiều em còn lúng túng khi dùng từ, diễn đạt ngôn ngữ vụng, có em viết không đúng yêu cầu của đề bài, có những bài làm đảm bảo về số câu nhưng không đủ ý. 3. Khảo sát phân môn Tập làm văn: Thời điểm: Tháng 9/2011 Đối tượng khảo sát: Học sinh lớp 3A Tổng số Giỏi Khá Trung bình Yếu 36 2/36 = 5,6% 8/36 = 22,2% 21/36 = 58,3% 5/36 = 13,9% Từ thực trạng trên, tôi đã tiến hành một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả giờ dạy kiểu bài Nói, viết theo chủ điểm. II. CÁC BIỆN PHÁP CHỦ YẾU 1. Hướng dẫn chuẩn bị: Để có một tiết học hiệu quả, khâu chuẩn bị rất cần thiết với cả thầy và trò. Với kiểu bài Nói, viết theo chủ điểm, học sinh phải được hướng dẫn chuẩn bị ngay từ khi bắt đầu học mỗi chủ điểm. Học sinh cần phải tích luỹ vốn từ, đặt câu qua các tiết học Tập đọc, Luyện từ và câu, Chính tả; sưu tầm tranh ảnh và tìm hiểu cách vẽ bản đồ tư duy theo chủ điểm. 2. Hướng dẫn tìm hiểu đề bài: Giáo viên cần cho học sinh tự xác định rõ yêu cầu các bài tập. Giúp học sinh tự xác định đúng yêu cầu bài tập để khi thực hành các em sẽ không chệch hướng, đảm bảo đúng nội dung đề tài cần luyện tập. 3. Hướng dẫn tìm hiểu hệ thống câu hỏi gợi ý: Hệ thống câu hỏi gợi ý tiết Tập làm văn kiểu bài Nói, viết theo chủ điểm trong SGK sắp xếp hợp lí như một dàn bài của một bài Tập làm văn; học sinh dựa vào gợi ý để luyện nói, sau đó viết thành một đoạn văn ngắn. Giáo viên cần cho học sinh đọc toàn bộ các câu gợi ý để hiểu rõ và nắm vững nội dung từng câu hỏi; từ đó giúp các em trình bày đoạn văn rõ ràng, mạch lạc đủ ý, dùng từ đúng, câu văn đúng ngữ pháp. Giúp học sinh nắm vững nội dung từng câu hỏi gợi ý sẽ hạn chế được việc trình bày ý trùng lặp, chồng chéo. Tạo được sự liên kết giữa các ý với nhau trong đoạn văn. Giáo viên cần giúp các em hiểu nghĩa của các từ ngữ có trong câu hỏi để học sinh hiểu và trình bày đúng yêu cầu, các từ ngữ này có thể là các từ mới hoặc các từ khó hiểu đối với địa phương. VD: Nói về bảo vệ môi trường, cần giúp học sinh hiểu môi trường gồm những gì? Để bảo vệ môi trường em cần làm gì? Những việc làm đó có phù hợp, gần gũi với các em không? Các em đã thực hiện hằng ngày như thế nào?... Trong các câu gợi ý, có một số câu hỏi gộp khiến học sinh lúng túng khi diễn đạt ý, do đó ý không trọn vẹn, bài văn thiếu sinh động sáng tạo. Giáo viên cần chia thành các câu gợi ý nhỏ để giúp các em có những ý tưởng phong phú, hồn nhiên. Việc chia thành nhiều câu gợi ý nhỏ sẽ có nhiều học sinh được rèn kĩ năng nói, giúp các em thêm tự tin và giáo viên dễ dàng sửa chữa sai sót cho học sinh. Ví dụ: Nói về quê hương, cần gợi ý cho học sinh nêu cảnh đẹp ở quê hương em là gì? Cảnh đó có gì đẹp? Yêu quê hương, em làm những gì để quê hương ngày càng thêm đẹp?... Như vậy qua hệ thống câu hỏi, giúp học sinh bày tỏ được thái độ, tình cảm, ý kiến nhận xét đánh giá của mình về vấn đề nêu ra trong bài học. Song song với quá trình đó giáo viên cần hỏi ý kiến nhận xét của học sinh về câu trả lời của bạn để học sinh rút ra được những câu trả lời đúng, cách ứng xử hay. Từ đó giúp học sinh mở rộng vốn từ, rèn kĩ năng diễn đạt mạch lạc, lôgíc, câu văn có hình ảnh, có cảm xúc. Trên cơ sở đó, bài văn của các em sẽ trôi chảy, sinh động, giàu cảm xúc đồng thời hình thành cho các em cách ứng xử linh hoạt trong cuộc sống. 4. Hướng dẫn liên tưởng, tưởng tượng: Do đặc điểm tâm lí lứa tuổi nên đa số bài văn của học sinh lớp 3 có ý tưởng chưa phong phú, sáng tạo, các em thường trình bày hạn hẹp trong khuôn khổ nhất định. Nếu trong một bài Tập làm văn, học sinh chỉ biết diễn đạt nội dung bằng những gì đã quan sát; hoặc thực hành một cách chính xác theo các gợi ý; bài làm như thế tuy đủ ý nhưng không có sức hấp dẫn, lôi cuốn người đọc, người nghe. Vì vậy, với từng đề bài giáo viên nên có những câu hỏi gợi ý, khuyến khích học sinh liên tưởng, tưởng tượng thêm những chi tiết một cách tự nhiên, chân thật và hợp lí qua việc sử dụng các biện pháp so sánh, nhân hoá, để từ đó học sinh biết trình bày bài văn giàu hình ảnh, sinh động, sáng tạo. Trí tưởng tượng, liên tưởng ở học sinh lứa tuổi này rất hồn nhiên ngây thơ và ngộ nghĩnh, cho nên để rèn luyện kĩ năng này cho học sinh, giáo viên có thể chuẩn bị những câu, đoạn văn hay cho học sinh tham khảo, học hỏi làm phong phú thêm vốn kiến thức cho các em. 4. Hướng dẫn lập bản đồ tư duy: Có thể hiểu bước lập bản đồ tư duy cũng chính là bước hướng dẫn học sinh lập dàn ý để chuẩn bị cho p
File đính kèm:
skkn_van_dung_ban_do_tu_duy_vao_mot_so_tiet_day_kieu_bai_noi.pdf