SKKN Tổ chức trò chơi nhằm gây hứng thú cho học sinh học môn Tiếng Việt Lớp 5 theo mô hình trường học mới VNEN

Cơ sở lý luận:

1.1 Đặc điểm tâm sinh lí của học sinh tiểu học:

Học sinh tiểu học là một thực thể hồn nhiên, ngây thơ và trong sáng. Ở mỗi trẻ em tiềm tàng khả năng phát triển về trí tuệ, lao động, rèn luyện và hoạt động xã hội để đạt một trình độ nhất định về lao động nghề nghiệp, về quan hệ giao lưu và chăm lo cuộc sống cá nhân, gia đình. Trẻ em ở lứa tuổi tiểu học là thực thể đang hình thành và phát triển cả về mặt sinh lý, tâm lý, xã hội, các em đang từng bước gia nhập vào xã hội thế giới của mọi mối quan hệ. Do đó, học sinh tiểu học chưa đủ ý thức, chưa đủ phẩm chất và năng lực như một công dân trong xã hội, mà các em luôn cần sự bảo trợ, giúp đỡ của người lớn, của gia đình, nhà trường và xã hội. Học sinh tiểu học dễ thích nghi và tiếp nhận cái mới và luôn hướng tới tương lai. Nhưng cũng thiếu sự tập trung cao độ, khả năng ghi nhớ và chú ý có chủ định chưa được phát triển mạnh, tính hiếu động, dễ xúc động còn bộc lộ rõ nét. Trẻ nhớ rất nhanh và quên cũng nhanh.

Ở lứa tuổi tiểu học các em nhận thức còn mang nặng cảm tính. Các em thường hiếu động, dễ hưng phấn, khó tập trung, không chú ý lâu hay hướng tới các hoạt động cụ thể dễ thấy, dễ hiểu các em không thích các hoạt động kéo dài thời gian. Cho nên trong quá trình học tập các em thường thiếu tính kiên trì, mau chán, ham chơi. Do đặc điểm về tâm lí, bản chất việc học của học sinh tiểu học “học mà chơi, chơi mà học” là đặc trưng cơ bản cho mọi hoạt động học tập, lao động, vui chơi giải trí và cũng là yêu cầu quan trọng khi mà chúng ta đang hướng vai trò trung tâm của học tập, tự rèn luyện cũng chính là các em.

1.2. Sự cần thiết của việc tổ chức trò chơi học tập cho học sinh lớp 5:

Hứng thú là một thuộc tính tâm lí - nhân cách quan trọng của con người. Hứng thú có vai trò rất quan trọng trong học tập và làm việc, không có việc gì người ta không làm được dưới ảnh hưởng của hứng thú. M. Gorki từng nói “Thiên tài nảy nở từ tình yêu đối với công việc”. Cùng với tự giác, hứng thú làm nên tính tích cực nhận thức, giúp học sinh học tập đạt kết quả cao, có khả năng khơi dậy mạch nguồn của sự sáng tạo. Trong khi đó, việc khảo sát thực tế dạy học ở tiểu học đã cho thấy nhiều học sinh tiểu học không có hứng thú trong học tập. Điều này vừa được xem như là một biểu hiện vừa được xem như là một nguyên nhân rất quan trọng của việc suy giảm chất lượng dạy học ở tiểu học.

Trong thực tế dạy học, giờ học nào tổ chức trò chơi cũng đều gây được không khí học tập hào hứng, thoải mái, vui nhộn. Nghiên cứu cho thấy, trò chơi học tập có khả năng kích thích hứng thú và trí tưởng tượng của trẻ em, kích thích sự phát triển trí tuệ của các em. Trò chơi học tập nhất thiết phải là một bộ phận của nội dung bài học, phải là một phần cấu tạo nên bài học. Trong trò chơi, khi mọi thứ đều thật, chẳng hạn trong môn Tiếng Việt, từ vẫn là từ, câu vẫn là câu, trò vẫn là trò, thầy vẫn là thầy. trò chơi sẽ bớt phần thú vị. Trò chơi cuốn hút trẻ em hơn nếu có được sự giả định từ tên gọi, từ người tham gia, từ tình huống đến kết quả chơi. Ví dụ nhóm trò chơi Trong vườn cổ tích đã khai thác tính giả định của trò chơi từ nguồn văn bản truyện cổ. Khi đó, trò chơi vừa minh hoạ sinh động kiến thức, kĩ năng tiếng Việt, vừa tạo ra được một không khí cổ tích huyền diệu, gợi lại nội dung các văn bản truyện cổ mà học sinh đã học ở phân môn Tập đọc hay Kể chuyện. Ví dụ, từ truyện Tấm Cám, xây dựng trò chơi “Chim sẻ giúp cô Tấm” dành cho các bài tập nhận diện, phân loại. Từ truyện Sơn Tinh Thuỷ Tinh, có thể xây dựng trò chơi “Dâng núi chống lụt” cho những bài tập chính tả, làm giàu vốn từ.

 

doc 19 trang Thảo Phương 15/05/2023 5960
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Tổ chức trò chơi nhằm gây hứng thú cho học sinh học môn Tiếng Việt Lớp 5 theo mô hình trường học mới VNEN", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Tổ chức trò chơi nhằm gây hứng thú cho học sinh học môn Tiếng Việt Lớp 5 theo mô hình trường học mới VNEN

SKKN Tổ chức trò chơi nhằm gây hứng thú cho học sinh học môn Tiếng Việt Lớp 5 theo mô hình trường học mới VNEN
MỤC LỤC
MỤC LỤC	... 1
I. ĐẶT VẤN ĐỀ ..............................................	 2
1. Lý do chọn đề tài ......	 2
2. Lịch sử của đề tài ......	 3
3. Mục đích nghiên cứu ....	 3
4. Nhiệm vụ nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu ..............	 3
5. Giới hạn ( phạm vi) nghiên cứu................. 4
6. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu ......... 4
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ  4
1. Cơ sở lý luận ........ 4
2.Thực trạng ..... 6
3. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề ................. 7
4. Hiệu quả của đề tài .. 15
III. KẾT LUẬN ............................................. 16
1. Đúc kết lại nội dung chính đã trình bày ..... 16
2. Biện pháp triển khai, áp dụng đề tài vào thực tiễn ...... 17
3. Kiến nghị . 18
4. Hướng phát triển của đề tài . 18
TÀI LIỆU THAM KHẢO .... 19
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lí do chọn đề tài:
 Môn Tiếng Việt là môn học có tầm quan trọng bậc nhất trong các môn học ở tiểu học. Bởi lẽ Tiếng Việt không những dạy cho các em biết kiến thức về ngôn ngữ trong giao tiếp mà còn giúp các em giữ gìn tiếng mẹ đẻ. Tiếng Việt có nhiệm vụ làm giàu vốn từ cho học sinh và trang bị cho các em một số kiến thức về từ, câu, cách sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp. Tiếng Việt là một thứ tiếng giàu đẹp và trong sáng mà lịch sử đã chứng minh rằng “Tiếng Việt trở thành vũ khí của dân tộc Việt Nam”.
Cùng với những môn học khác, môn Tiếng Việt ở tiểu học giữ một vị trí hết sức quan trọng trong việc hình thành nhân cách, phát triển năng lực trí tuệ cho học sinh. Nó trang bị cho học sinh những kiến thức cần thiết nhằm phục vụ đời sống và phát triển của xã hội. Môn Tiếng Việt ở tiểu học nói chung và ở lớp 5 nói riêng quyết định cho việc dạy học Tiếng Việt sau này của học sinh.
Để thực hiện tốt mục tiêu của môn Tiếng Việt, người giáo viên phải thực hiện đổi mới các phương pháp dạy học theo mô hình học tập kiểu mới VNEN, sao cho học sinh là người chủ động nắm bắt kiến thức của môn học một cách tích cực, sáng tạo góp phần hình thành phương pháp và nhu cầu tự học, tự phát hiện và tự giải quyết vấn đề đặt ra trong bài học. Từ đó chiếm lĩnh nội dung mới của bài học, môn học. Giáo viên là người theo dõi quan sát và giúp đỡ các em thực hiện mục tiêu đó.
Trò chơi học tập là một hình thức hoạt động thường được đông đảo học sinh hứng thú tham gia trong và ngoài lớp học. Trò chơi học tập môn Tiếng Việt nhằm tạo điều kiện cho các em học sinh thực hành rèn luyện các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết, đồng thời tiếp thu kiến thức môn học một cách tự giác sáng tạo. Tham gia vào các trò chơi học tập, học sinh còn được rèn luyện, phát triển về cả trí tuệ, thể lực và nhân cách, đáp ứng mục tiêu môn học theo hướng đổi mới VNEN đó là lấy học sinh làm trung tâm, học sinh tự lĩnh hội và chiếm lĩnh kiến thức, người giáo viên chỉ là giúp đỡ các em thông qua các hoạt động học.
Từ những lí do trên cộng với kinh nghiệm đứng lớp, tôi đã thường xuyên áp dụng trò chơi vào các tiết học Tiếng Việt. Tôi thấy những trò chơi ấy thật sự có hiệu quả cao trong giờ học, lại dễ tổ chức, dễ thực hiện, tiết học lại sôi nổi gây hứng thú cho học sinh. Vì thế tôi đã chọn và nghiên cứu sáng kiến kinh nghiệm: Tổ chức trò chơi nhằm gây hứng thú cho học sinh học môn Tiếng Việt lớp 5 theo mô hình trường học mới VNEN”.
2. Lịch sử của đề tài:
Bắt đầu năm học 2008 – 2009, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phát động phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” nhằm mục tiêu: Huy động sức mạnh tổng hợp của các lực lượng trong và ngoài nhà trường để xây dựng môi trường giáo dục an toàn, thân thiện, hiệu quả phù hợp với địa phương và đáp ứng nhu cầu của xã hội, phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo của học sinh trong học tập và các hoạt động ngoại khóa một cách phù hợp và hiệu quả. Cuộc vận động này đã khích lệ tất cả cán bộ, giáo viên trong ngành giáo dục nói riêng và toàn xã hội nói chung đều đồng tình hưởng ứng tích cực.
Mặt khác, Trường Tiểu học Vạn Thọ 1 tôi đang dạy là trường đang thực hiện dạy học theo mô hình trường học mới (VNEN) cho nên việc thay đổi phương pháp dạy học là điều cần thiết và phải tiến hành kịp thời. Trong các phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực của học sinh theo mô hình trường học mới, phương pháp trò chơi học tập được xem là một trong các phương pháp dạy học được sử dụng thường xuyên và có hiệu quả, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí học sinh tiểu học đó là “học mà chơi, chơi mà học”.
3. Mục đích nghiên cứu:
Mục đích của đề tài này là xây dựng cơ sở khoa học về tổ chức trò chơi nhằm gây hứng thú học tập cho học sinh. Từ đó xây dựng định hướng cho giáo viên trong việc thực hiện tổ chức trò chơi như thế nào là có tính khả thi, hiệu quả và phù hợp với đặc điểm của học sinh, khắc phục một số hạn chế, khó khăn và lúng túng trong quá trình thực hiện phương pháp dạy học bằng cách thức tổ chức trò chơi học tập. Giáo viên dễ dàng hơn khi tổ chức dạy học trên lớp, khắc phục được tình trạng truyền thụ kiến thức. Dựa vào thời lượng, có thể soạn bài bổ sung hoặc điều chỉnh nội dung, phương pháp dạy học cho phù hợp đối tượng học sinh, đặc điểm, điều kiện cụ thể của địa phương. Học sinh chủ động hơn, tích cực hơn trong học tập. Học sinh có cơ hội chia sẻ những trải nghiệm, được thực hành và vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học vào đời sống hàng ngày. Đồng thời giúp học sinh phát triển năng lực xã hội, năng lực hoạt động của bản thân và phát huy tốt khả năng sáng tạo. Nhằm góp phần vào tiến trình đổi mới phương pháp dạy học nói chung, phương pháp trò chơi nói riêng, từng bước nâng dần chất lượng giáo dục của nhà trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu:
4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Nghiên cứu tổ chức trò chơi nhằm gây hứng thú cho học sinh học môn Tiếng Việt lớp 5 theo mô hình trường học mới VNEN ở trường tiểu học.
- Nghiên cứu thực tiễn – thực trạng của phương pháp tổ chức trò chơi, chú ý đến những nguyên nhân dẫn đến tổ chức trò chơi chưa hiệu quả.
- Đề xuất những giải pháp khả thi qua việc tổng kết kinh nghiệm và nghiên cứu tư liệu.
4.2. Phương pháp nghiên cứu:
4.2.1. Phương pháp quan sát:
Quan sát thái độ, sự tích cực của học sinh khi tham gia trò chơi để thu thập thông tin, nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan hiệu quả của các trò chơi được sử dụng trong suốt quá trình nghiên cứu qua từng giai đoạn học của học sinh.
4.2.2. Phương pháp thực nghiệm:
- Áp dụng linh hoạt một số biện pháp tổ chức trò chơi vào trong các giờ dạy để nắm bắt sự tác động tích cực, hiệu quả tiết dạy. 
4.2.3. Phương pháp điều tra:
- Điều tra trực tiếp học sinh để nắm bắt mức độ hứng thú của học sinh khi tham gia chơi trò chơi.
- Trao đổi với đồng nghiệp để hiểu rõ mức độ hiệu quả của sử dụng phương pháp tổ chức trò chơi trong quá trình dạy học của họ.
4.2.4. Phương pháp so sánh, đối chiếu:
Căn cứ vào kết quả học tập trước và sau khi áp dụng tổ chức trò chơi vào giảng dạy để đối chiếu, so sánh, từ đó đánh giá được mức độ hiệu quả của các biện pháp đã áp dụng.
4.2.5. Phương pháp tổng hợp:
Thực hiện trong quá trình áp dụng phương pháp tổ chức trò chơi trong giảng dạy; theo dõi tổng hợp tất cả các tình huống nhằm rút ra cho mình một số kinh nghiệm trong tổ chức trò chơi sao cho hiệu quả. 
5. Giới hạn (phạm vi) nghiên cứu:
- Nội dung nghiên cứu: Tổ chức trò chơi khi dạy môn Tiếng Việt lớp 5 (tổ chức trò chơi cho học sinh lớp 5B theo mô hình trường học mới VNEN) Trường Tiểu học Vạn Thọ 1.
- Đối tượng nghiên cứu: Học sinh lớp 5B Trường Tiểu học Vạn Thọ 1.
- Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 10/ 2017 đến tháng 3/2018.
6. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu:
- Nghiên cứu nhiều về phương pháp tổ chức trò chơi học tập qua đó tích lũy nhiều kiến thức, kĩ năng, kinh nghiệm phục vụ cho việc giảng dạy môn Tiếng Việt lớp 5.
- Chắc lọc nhiều biện pháp để giúp học sinh có hứng thú trong học tập, yêu thích môn học, mong đợi giờ học Tiếng Việt.
- Thay đổi hình thức hoạt động của học sinh, giúp học sinh tiếp thu kiến thức một cách tự giác, tích cực. 
- Qua các trò chơi, giúp học sinh luyện kỹ năng, kỹ xảo, thao tác và phản ứng nhanh nhẹn, thúc đẩy hoạt động trí tuệ, cơ hội học tập đa dạng hơn.
- Phát huy tính đoàn kết, tinh thần đồng đội cho học sinh, tạo không khí vui tươi, học mà chơi, chơi mà học.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lý luận:
1.1 Đặc điểm tâm sinh lí của học sinh tiểu học:
Học sinh tiểu học là một thực thể hồn nhiên, ngây thơ và trong sáng. Ở mỗi trẻ em tiềm tàng khả năng phát triển về trí tuệ, lao động, rèn luyện và hoạt động xã hội để đạt một trình độ nhất định về lao động nghề nghiệp, về quan hệ giao lưu và chăm lo cuộc sống cá nhân, gia đình. Trẻ em ở lứa tuổi tiểu học là thực thể đang hình thành và phát triển cả về mặt sinh lý, tâm lý, xã hội, các em đang từng bước gia nhập vào xã hội thế giới của mọi mối quan hệ. Do đó, học sinh tiểu học chưa đủ ý thức, chưa đủ phẩm chất và năng lực như một công dân trong xã hội, mà các em luôn cần sự bảo trợ, giúp đỡ của người lớn, của gia đình, nhà trường và xã hội. Học sinh tiểu học dễ thích nghi và tiếp nhận cái mới và luôn hướng tới tương lai. Nhưng cũng thiếu sự tập trung cao độ, khả năng ghi nhớ và chú ý có chủ định chưa được phát triển mạnh, tính hiếu động, dễ xúc động còn bộc lộ rõ nét. Trẻ nhớ rất nhanh và quên cũng nhanh. 
Ở lứa tuổi tiểu học các em nhận thức còn mang nặng cảm tính. Các em thường hiếu động, dễ hưng phấn, khó tập trung, không chú ý lâu hay hướng tới các hoạt động cụ thể dễ thấy, dễ hiểu các em không thích các hoạt động kéo dài thời gian. Cho nên trong quá trình học tập các em thường thiếu tính kiên trì, mau chán, ham chơi. Do đặc điểm về tâm lí, bản chất việc học của học sinh tiểu học “học mà chơi, chơi mà học” là đặc trưng cơ bản cho mọi hoạt động học tập, lao động, vui chơi giải trí và cũng là yêu cầu quan trọng khi mà chúng ta đang hướng vai trò trung tâm của học tập, tự rèn luyện cũng chính là các em.
1.2. Sự cần thiết của việc tổ chức trò chơi học tập cho học sinh lớp 5:
Hứng thú là một thuộc tính tâm lí - nhân cách quan trọng của con người. Hứng thú có vai trò rất quan trọng trong h ... hóm.
- Từng nhóm thảo luận để giải ô chữ trên bảng nhóm hoặc tờ giấy khổ to và ghi lại từ hàng dọc tức là từ khóa.
- Các nhóm trình bày kết quả trước lớp. Nhóm nào giải đúng và xong trước thì thắng cuộc.
3.8.5. Trò chơi: Trắc nghiệm
* Mục đích:
- Ôn tập lại kiến thức đã học; luyện phản ứng nhanh, khả năng quan sát, nhận xét, đánh giá chính xác, tiết kiệm thời gian.
- Rèn tính tự giác, nêu cao tinh thần đồng đội.
 * Chuẩn bị: 
- Giáo viên: chuẩn bị hệ thống câu hỏi và đáp án.
- Học sinh: thẻ đúng, sai.
* Cách tổ chức: 
- Chia lớp làm 2 đội chơi, cử 2 trọng tài.
- Giáo viên lần lượt đưa ra câu hỏi trắc nghiệm dạng đúng sai lên quan tới kiến thức đã học.
- Học sinh sử dụng thẻ đúng, sai để trả lời, sau mỗi câu hỏi giáo viên đưa ra đáp án đúng, trọng tài theo dõi tổng kết. Đội nào có số bạn trả lời sai ít hơn đội đó thắng cuộc.
Trò chơi này tôi thường sử dụng để tạo hứng thú, dẫn dắt giới thiệu những bài có kiến thức liên quan tới kiến thức đã học trước đó, đặc biệt là những bài ôn tập.
* Ngoài những trò chơi trên, trong tài liệu hướng dẫn học Tiếng Việt còn được thiết kế rất nhiều trò chơi ở một số nhiệm vụ học tập. Tức là để hoàn thành các nhiệm vụ học tập đó thì học sinh phải thực hiện trò chơi theo hướng dẫn trong tài liệu theo hình thức nhóm hoặc cả lớp.
4. Hiệu quả của đề tài:
4.1. Tiêu chí đánh giá:	
Để có được những giờ học Tiếng Việt đạt hiệu quả, mỗi người giáo viên cần phải lựa chọn các hình thức dạy học phù hợp với đặc điểm, tình hình cụ thể của lớp mình. Trong quá trình nghiên cứu của mình tôi luôn vận dụng những phương pháp dạy học phù hợp nhất. Một trong các phương pháp tôi lựa chọn đó là phương pháp trò chơi.
Vậy để đánh giá phương pháp tổ chức trò chơi học tập nói chung và dạy Tiếng Việt có sử dụng phương pháp trò chơi nói riêng cần có các tiêu chí sau đây:
- Mục đích của trò chơi phải thể hiện mục tiêu của bài học hoặc một phần của bài học.
- Hình thức chơi đa dạng giúp học sinh được thay đổi các hoạt động học tập trên lớp, giúp học sinh phối hợp các hoạt động trí tuệ với các hoạt động vận động.
- Luật chơi đơn giản để học sinh dễ nhớ, dễ thực hiện. Cần đưa ra các cách chơi có nhiều học sinh tham gia để tăng cường kỹ năng học tập, hợp tác.
- Các dụng cụ chơi cần đơn giản, dễ làm hoặc dễ tìm kiếm tại chỗ.
- Chọn quản trò chơi có năng lực phù hợp với yêu cầu của trò chơi.
- Tổ chức chơi vào thời gian thích hợp của bài học để vừa làm cho học sinh hứng thú học tập vừa hướng cho học sinh tiếp tục tập trung các nội dung khác của bài học một cách có hiệu quả.
4.2. Kết quả:
Những tiết dạy tôi áp dụng trò chơi Tiếng Việt vào giảng dạy học sinh rất hứng thú và tiếp thu bài một cách chủ động, dưới sự điều hành của các nhóm trưởng. 
Các em thường xuyên chơi các trò chơi học tập đó đã mang lại hiệu quả cao trong quá trình “đọc, nói, viết” của mỗi em.
Chất lượng các bài tập thực hành được các em vận dụng kiến thức vào làm bài một cách chắc chắn hơn, biết sử dụng vốn từ Tiếng Việt để viết các câu văn, đoạn văn, bài văn hoàn chỉnh.
Các em đã biết lồng ghép các hình ảnh so sánh, những câu văn mà trong đó sự vật được nhân hóa để viết bài.
 Một số học sinh đọc chưa biết ngắt nghỉ hay nhấn giọng đến nay các em đã biết thể hiện giọng đọc của mình, lời của các nhân vật. Thông qua các hoạt động thực hành. 
Chất lượng môn Tiếng Việt đã được nâng cao thể hiện qua kết quả kiểm tra định kì ở các học kì. Cụ thể như sau:
* Giữa học kì 1:
Lớp
Sĩ số
Hoàn thành tốt
Hoàn thành
Chưa hoàn thành
SL
%
SL
%
SL
%
5B
23
9
39,1
14
60,9
0
0
* Cuối học kì 1:
Lớp
Sĩ số
Hoàn thành tốt
Hoàn thành
Chưa hoàn thành
SL
%
SL
%
SL
%
5B
23
12
52,2
11
47,8
0
0
* Giữa học kì 2:
Lớp
Sĩ số
Hoàn thành tốt
Hoàn thành
Chưa hoàn thành
SL
%
SL
%
SL
%
5B
23
13
56,5
10
43,5
0
0
III. KẾT LUẬN 
1. Đúc kết lại nội dung chính đã trình bày:
	Qua gần một năm vận dụng các giải pháp đổi mới phương pháp dạy học theo mô hình trường học mới VNEN và việc tổ chức trò chơi trong dạy Tiếng Việt ở lớp 5, tôi nhận thấy mô hình đã mang lại những kết quả tốt đẹp. Giáo viên sử dụng linh hoạt các phương pháp và kỹ thuật dạy học nên đã phát huy được tính tích cực, chủ động, tinh thần hợp tác, chia sẻ để cùng nhau tìm tòi, khám phá kiến thức trong học sinh. Học sinh luôn tự lập, tự khám phá, tự chiếm lĩnh tiếp thu kiến thức tốt hơn, khắc sâu được kiến thức, mở rộng vốn từ, dùng từ ngữ viết văn sinh động, gợi tả gợi cảm hơn, nhất là học sinh không cảm thấy nhàm chán trong giờ học Tiếng Việt. Do đó duy trì tốt hơn sự chú ý của các em đối với bài học. Tạo được một môi trường học tập thân thiện, vui vẻ, thoải mái. Chất lượng học tập ngày càng cao.
Nếu mỗi thầy cô cùng nêu cao ý thức trách nhiệm, tâm huyết với nghề đặc biệt coi trọng việc thay đổi phương pháp dạy học theo hướng tích cực, tôi tin chắc rằng chất lượng học tập của học sinh ngày càng được nâng cao, chất lượng giáo dục toàn diện trong các nhà trường được nâng lên. Trong nghề dạy học thì chất lượng thực của học sinh cũng phải đặt lên hàng đầu. Có như vậy mới đáp ứng được yêu cầu phát triển của xã hội ngày nay. 
2. Biện pháp triển khai, áp dụng đề tài vào thực tiễn:
Để thực hiện tốt các vấn đề đã được đề cập trong nội dung sáng kiến, bản thân tôi luôn xác định cho mình những biện pháp triển khai, áp dụng đề tài vào thực tiễn như sau :
- Tìm hiểu rõ tác dụng của mô hình trường học mới VNEN.
- Xác định tầm quan trọng của việc tổ chức lớp học mà trong đó lấy học sinh làm trung tâm, các em tự chiếm lĩnh kiến thức thông qua các hoạt động cơ bản và hoạt động thực hành.
- Giáo viên cần tìm hiểu những nội dung cơ bản của sách “Hướng dẫn học Tiếng việt 5” so với sách Tiếng Việt hiện hành không có sự thay đổi về mặt nội dung kiến thức. Vì vậy mà khi dạy chúng ta cần chốt kiến thức cho các em một cách cụ thể, rõ ràng.
- Xây dựng đội ngũ trưởng nhóm có kĩ năng điều hành các hoạt động học một các linh hoạt theo đúng với các lôgô in trong tài liệu.
- Xây dựng và rèn cho “Hội đồng tự quản” làm việc một cách hiệu quả, tích cực.
- Trong quá trình giảng dạy giáo viên luôn chú ý đến “tiến độ học” của học sinh, để từ đó có những biện pháp tổ chức cụ thể.
- Giáo viên luôn tạo ra hứng thú cho các em thông qua việc tổ chức các trò chơi học tập. Đặc biệt là trong môn Tiếng Việt, các em vừa học, vừa lĩnh hội kiến thức một cách nhẹ nhàng. Qua đó các em thích học Tiếng Việt hơn, sử dụng ngôn ngữ “nói”, “viết” một cách thành thạo hơn.
- Giáo viên luôn phối hợp với các giáo viên bộ môn, phụ huynh học sinh... hình thành cho học sinh những ngôn ngữ “nói” để từ đó các em biết vận dụng vào học Tiếng Việt qua ngôn ngữ “viết”.
- Phải hết lòng yêu nghề, mến trẻ, tâm huyết với con đường mà mình đã chọn, coi học sinh là niềm vui, niềm hy vọng lớn trong đời. Không ngừng học tập, bồi dưỡng, áp dụng các chuyên đề đổi mới phương pháp giảng dạy ở tiểu học, tìm tòi sáng tạo, thay đổi linh hoạt các biện pháp giáo dục, các hình thức tổ chức học tập, nhằm phát huy tính tích cực sáng tạo của học sinh. Ngoài ra giáo viên còn phải là người nắm vững cơ sở tâm lí học trong giảng dạy.
- Không ngừng nghiên cứu và thiết kế những trò chơi mới phù hợp với lứa tuổi học sinh, phù hợp với kiến thức bài dạy để áp dụng có hiệu quả, tạo sự mới mẻ, khơi dậy hứng thú học tập cho học sinh. Vì một trò chơi mà sử dụng quá nhiều lần, liên tục dễ gây nhàm chán cho học sinh. 
- Qua trò chơi, giáo viên phải giáo dục sự đoàn kết, phát huy tinh thần đồng đội, tránh xảy ra sự ganh đua, cay cú, mất đoàn kết giũa các học sinh trong lớp.
- Tổ chức thường xuyên, linh hoạt các trò chơi trong mỗi giờ học Tiếng Việt.
- Tổ chức triển khai đề tài cho giáo viên trong nhà trường, thông qua báo cáo lý thuyết và thực hành giảng dạy có áp dụng phương pháp trò chơi học tập.
3. Kiến nghị:
Tổ chuyên môn cùng nhà trường thường xuyên tổ chức các chuyên đề đổi mới phương pháp dạy môn Tiếng Việt trong đó có vận dụng phương pháp trò chơi học tập. Tổ chức khảo sát chất lượng học tập cũng như hứng thú khi học môn Tiếng Việt của học sinh ở các khối lớp để giáo viên có những định hướng đổi mới phương pháp, hình thức dạy học phù hợp kịp thời tùy vào tình hình học tập của các em học sinh.
Đối với bản thân giáo viên: Không ngừng học tập, nghiên cứu đổi mới các phương pháp dạy học tích cực phù hợp với tâm lí của học sinh nhằm tạo hứng thú, phát huy tính tích cực cho học sinh.
	4. Hướng phát triển của đề tài:
Kết quả sau đề tài có thể được sử dụng để nghiên cứu về phương pháp tổ chức trò chơi học tập trong dạy học môn Tiếng Việt. Đồng thời chúng ta có thể tham khảo, vận dụng vào nghiên cứu phương pháp trò chơi học tập ở các môn học khác trong chương trình tiểu học.
* Qua quá trình giảng dạy, nghiên cứu tôi đã rút ra kinh nghiệm “Tổ chức trò chơi nhằm gây hứng thú cho học sinh học môn Tiếng Việt lớp 5 theo mô hình trường học mới VNEN ” và áp dụng vào lớp 5B do tôi thực dạy. Kết quả cho thấy chất lượng học Tiếng Việt của học sinh được nâng lên rõ rệt so với những năm chưa áp dụng sáng kiến. Các em đều hứng thú và tăng thêm sự yêu thích học môn Tiếng Việt. Song vì trình độ có hạn, sáng kiến của tôi còn nhiều thiếu sót so với các đồng nghiệp. Rất mong ý kiến đóng góp của các đồng nghiệp, sự chỉ đạo giúp đỡ của các cấp lãnh đạo để đề tài của tôi được hoàn hảo. 
Xin chân thành cảm ơn ! 
 Vạn Thọ, ngày 14 tháng 3 năm 2018
 HIỆU TRƯỞNG Người viết 
 Võ Thị Hằng
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình về Tâm lí học Tiểu học – GS.TS Bùi Văn Huệ, Tài liệu của Trường Đại học Huế, xuất bản năm 2012.
2. Giáo trình về Giáo dục học Tiểu học – GS.TS Phó Đức Hòa, Tài liệu của Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, xuất bản năm 2010.
3. Tài liệu về hướng dẫn học Tiếng Việt 5, tập 1A, tập 1B, tập 2A, tập 2B Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, xuất bản năm 2014.
4. Sách giáo viên Tiếng Việt 5, Nhà xuất bản Giáo dục, xuất bản năm 2006.
5 Tài liệu tập huấn Môn Tiếng Việt theo mô hình Vnen, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, xuất bản năm 2013.
6. Tài liệu hướng dẫn giáo viên môn Tiếng Việt lớp 5, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, xuất bản năm 2015.

File đính kèm:

  • docskkn_to_chuc_tro_choi_nham_gay_hung_thu_cho_hoc_sinh_hoc_mon.doc