SKKN Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Toán cho học sinh Lớp 5 trường Tiểu học Vạn Khánh 2
1. Cơ sở lý luận của vấn đề:
Môn Toán 5 là một môn học luyện tập, thực hành. Nhiệm vụ quan trọng nhất của nó là hình thành năng lực học Toán cho học sinh thông qua 6 yêu cầu về kiến thức, kĩ năng như sau:
1.1. Về số và phép tính:
Bổ sung những hiểu biết về cần thiết về phân số thập phân, hỗn số để chuẩn bị học số thập phân.
Ôn tập củng cố, hệ thống hoá những kiến thức và kĩ năng cơ bản về số và phép tính với số tự nhiên, phân số và số thập phân.
1.2. Về đo lường:
Biết tên gọi, kí hiệu, quan hệ giữa các đơn vị đo diện tích, thể tích thông dụng.
Biết viết các số đo độ dài, khối lượng, diện tích, thể tích, thời gian dưới dạng số thập phân.
1.3. Về hình học:
Nhận biết được hình thang, hình hộp chữ nhật, hình lập phương, hình trụ, hình cầu và một số dạng của hình tam giác.
Biết tính chu vi, diện tích hình tam giác, hình thang, hình tròn.
Biết tính diện tích xung quanh, diện tích toàn phần, thể tích hình hộp chữ nhật, hình lập phương.
1.4. Về giải toán có lời văn:
Biết giải và trình bày bài toán theo 4 bước.
Một số dạng toán về quan hệ tỉ lệ.
Các bài toán về tỉ số phần trăm.
Các bài toán có nội dung hình học liên quan đến các hình đã học.
1.5. Về các yếu tố thống kê:
Biết đọc các số liệu trên biểu đồ hình quạt.
Bước đầu biết nhận xét về một số thông tin đơn giản thu thập trên biểu đồ.
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Toán cho học sinh Lớp 5 trường Tiểu học Vạn Khánh 2
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VẠN NINH TRƯỜNG TIỂU HỌC VẠN KHÁNH 2 SÁNG KIẾN Tên đề tài: Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Toán cho học sinh lớp 5 trường Tiểu học Vạn Khánh 2. TÁC GIẢ : LƯU QUỐC THỊNH Năm học: 2018 - 2019 MỤC LỤC Trang I. ĐẶT VẤN ĐỀ: 1 1. Lý do chọn đề tài 1 2. Lịch sử của đề tài 1 3. Mục đích nghiên cứu đề tài 1 4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu 1 5. Giới hạn (phạm vi) nghiên cứu 2 6. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu 2 II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 2 1. Cơ sở lí luận của vấn đề 2 2. Thực trạng của vấn đề 3 3. Các biện pháp đã tiến hành giải quyết vấn đề 4 3.1. Xác định đặc điểm và trình độ học sinh 4 3.2. Nghiên cứu chương trình, sách giáo khoa hoặc các tài liệu dạy học 5 3.2.1. Số thập phân và các phép tính với số thập phân 6 3.2.2. Đại lượng và đo đại lượng 7 3.2.3. Bài toán có yếu tố hình học 10 3.2.4. Giải toán có lời văn 10 3.2.5. Bài toán về thống kê 11 3.2.6. Hình thành kĩ năng tư duy ngôn ngữ 11 3.3. Lựa chọn phương pháp và chuẩn bị câu hỏi mang tính hệ thống 12 3.4. Chuẩn bị đồ dùng dạy học, phương tiện và hình thức tổ chức dạy học 12 3.5. Phân phối thời gian dự kiến cho từng hoạt động 13 4. Hiệu quả của đề tài 14 III. KẾT LUẬN 14 1. Đúc kết lại những nội dung chính đã trình bày 14 2. Đề ra biện pháp triển khai, áp dụng đề tài vào thực tiễn 15 3. Nêu kiến nghị, đề xuất (nếu có) 15 4. Hướng phát triển của đề tài 15 I. ĐẶT VẤN ĐỀ: 1. Lý do chọn đề tài: Như chúng ta đã biết, Toán học có vai trò rất quan trọng đối với đời sống và các ngành khoa học. Đồng thời môn Toán là một môn học có tính liên tục (giáo dục đồng tâm), nếu chúng ta không khéo trong phương pháp giảng dạy thì rất khó tạo được hứng thú cho các em học tốt và say mê học Toán. Trong chương trình môn học ở bậc Tiểu học nói chung và lớp 5 nói riêng, môn Toán chiếm số giờ rất lớn. Việc nâng cao hiệu quả của dạy và học môn Toán là yêu cầu bức thiết hiện nay, là giáo viên đang giảng dạy tôi luôn suy nghĩ, tìm tòi và học hỏi phải làm như thế nào để các em thích thú với môn học vừa khó vừa khô như thế. Mặt khác đặc điểm nhận thức của học sinh là năng lực phân tích, tổng hợp chưa cao, tri giác thường dựa vào hình dạng bên ngoài, nhận thức chủ yếu dựa vào cái quan sát đượcĐến lớp 5 trí tưởng tượng của học sinh đã phát triển nhưng vẫn phụ thuộc vào mô hình mẫu vật thật, suy luận của học sinh đã phát triển song vẫn còn là một dãy phán đoán, nhiều khi còn cảm tính. Chính vì vậy tôi đã mạnh dạn đưa ra sáng kiến: Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Toán cho học sinh lớp 5 Trường Tiểu học Vạn Khánh 2. 2. Lịch sử của đề tài: Đề tài được bắt đầu vào tháng 8/2018 và kết thúc vào tháng 12/2018. 3. Mục đích nghiên cứu của đề tài: Mục đích của nghiên cứu là đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Toán ở lớp 5. 4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu: 4.1. Nhiệm vụ: Chỉ ra những cơ sở lí luận thực tiễn của việc hướng dẫn học sinh lớp 5 học tập môn Toán thông qua việc thực nghiệm bản thân nhằm giúp cho việc dạy học có hiệu quả hơn. Thực nghiệm dạy học theo hướng tích cực các hoạt động học tập của học sinh bằng phiếu bài tập, đồ dùng trực quan, vật mẫu (thu nhỏ). Tìm ra những nguyên nhân, giải pháp, ý kiến nhằm khắc phục khó khăn nâng cao chất lượng dạy học môn Toán. Tổng kết, đánh giá và rút ra bài học kinh nghiệm, nêu ý kiến đề xuất của bản thân. 4.2. Phương pháp: Phương pháp sư phạm. Nhóm phương pháp điều tra: Quan sát điều tra từ kết quả thực hiện của học sinh, phỏng vấn, kiểm tra đánh giá. Nhóm phương pháp phân tích, tổng hợp, xử lý tình huống trong giảng dạy. Phương pháp quan sát. Phương pháp trao đổi Phương pháp thực nghiệm. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm. 5. Giới hạn (phạm vi) nghiên cứu: Đề tài được thực nghiệm trên học sinh lớp 5 mà tôi chủ nhiệm trong năm học 2017-2018, kết quả cuối năm được so sánh với năm học 2016-2017, khi chưa áp dụng đề tài. 6. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu: Giải pháp tôi đưa ra là góp phần hoàn thiện cho học sinh các kĩ năng Toán học ở Tiểu học. Qua đó phát huy niềm vui khi học Toán cho các em. Đồng thời cũng góp phần phát triển tư duy ngôn ngữ, rèn luyện các đức tính tốt cho học sinh. Để việc tổ chức học Toán có hiệu quả, tôi đã tiến hành các bước sau: - Xác định đặc điểm và trình độ học sinh. - Nghiên cứu chương trình sách giáo khoa và các tài liệu dạy học. - Lựa chọn phương pháp và chuẩn bị câu hỏi mang tính hệ thống. - Chuẩn bị đồ dùng dạy học, phương tiện và hình thức tổ chức dạy học. - Phân phối thời gian dự kiến cho từng hoạt động. II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ: 1. Cơ sở lý luận của vấn đề: Môn Toán 5 là một môn học luyện tập, thực hành. Nhiệm vụ quan trọng nhất của nó là hình thành năng lực học Toán cho học sinh thông qua 6 yêu cầu về kiến thức, kĩ năng như sau: 1.1. Về số và phép tính: Bổ sung những hiểu biết về cần thiết về phân số thập phân, hỗn số để chuẩn bị học số thập phân. Ôn tập củng cố, hệ thống hoá những kiến thức và kĩ năng cơ bản về số và phép tính với số tự nhiên, phân số và số thập phân. 1.2. Về đo lường: Biết tên gọi, kí hiệu, quan hệ giữa các đơn vị đo diện tích, thể tích thông dụng. Biết viết các số đo độ dài, khối lượng, diện tích, thể tích, thời gian dưới dạng số thập phân. 1.3. Về hình học: Nhận biết được hình thang, hình hộp chữ nhật, hình lập phương, hình trụ, hình cầu và một số dạng của hình tam giác. Biết tính chu vi, diện tích hình tam giác, hình thang, hình tròn. Biết tính diện tích xung quanh, diện tích toàn phần, thể tích hình hộp chữ nhật, hình lập phương. 1.4. Về giải toán có lời văn: Biết giải và trình bày bài toán theo 4 bước. Một số dạng toán về quan hệ tỉ lệ. Các bài toán về tỉ số phần trăm. Các bài toán có nội dung hình học liên quan đến các hình đã học. 1.5. Về các yếu tố thống kê: Biết đọc các số liệu trên biểu đồ hình quạt. Bước đầu biết nhận xét về một số thông tin đơn giản thu thập trên biểu đồ. 1.6. Về phát triển ngôn ngữ, tư duy và góp phần hình thành nhân cách của học sinh: Biết diễn đạt một số nhận xét, quy tắc, tính chấtbằng ngôn ngữ (nói, viết) ở dạng khái quát. Tiếp tục phát triển năng lực phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, cụ thể hóa; bước đầu hình thành và phát triển tư duy phê phán, sáng tạo; phát triển trí tưởng tượng không gian Tiếp tục rèn luyện các đức tính: chăm học, cẩn thận, tự tin, trung thực, có tinh thần trách nhiệm. . .góp phần hình thành nhân cách. 2. Thực trạng của vấn đề: Ở trường Tiểu học hiện nay, việc dạy Toán bên cạnh những thành công vẫn còn nhiều hạn chế. Học sinh tính toán còn chậm, chưa thành thạo như mong muốn, kết quả tính toán của các em chưa đáp ứng được yêu cầu của việc hình thành kĩ năng tính toán. Các em chưa nắm được công cụ hữu hiệu để lĩnh hội tri thức, nội dung, kiến thức trong bài học và mối liên quan chặt chẽ với các bài học khác. Giáo viên tiểu học còn lúng túng khi dạy Toán, chưa thực sự nắm bắt xuyên suốt nội dung chương trình. Nhất là việc đổi mới chương trình đòi hỏi sự đổi mới trong phương pháp dạy của giáo viên và học của học sinh. Việc đởi mới phương pháp cần đảm bảo các yếu tố sau: Cần truyền thụ nội dung, kiến thức sao cho hiệu quả nhất ? Biện pháp gì để phát triển năng lực học tập Toán phù hợp với từng năng lực học sinh ? Bằng những phương pháp tích cực nào để học sinh lĩnh hội tri thức một cách chủ động, sáng tạo nhất ? Để từ đó các em vận dụng vào đời sống và các ngành khoa học. Đó là những trăn trở của giáo viên nói chung và bản thân tôi nói riêng. Từ những mục đích, yêu cầu và nhiệm vụ môn Toán, để học sinh học tốt môn Toán 5, tôi xin đề ra một số biện pháp sau: 3. Các biện pháp đã tiến hành giải quyết vấn đề: Quyển sách giáo khoa đầu tiên người giáo viên cần nghiên cứu chính là học sinh của mình đang trực tiếp giảng dạy. 3.1. Xác định đặc điểm và trình độ học sinh: Để tiến hành dạy học Toán, chúng ta phải hiểu rõ học sinh của mình, đặc điểm trình độ từng đối tượng học sinh, cụ thể các em đã có kĩ năng, kĩ xảo tính toán gì và chưa hệ thống tốt ở nhóm kiến thức nào, dạng toán giải có lời văn nào. . . Từ đó, giáo viên phát huy điểm mạnh và sửa chữa sai lầm của các em. Sự hiểu biết này giúp chúng ta xác định tính vừa sức, tính mức độ của nội dung kiến thức. Và từ đó nâng dần kĩ năng tính toán cho từng đối tượng học sinh. Chẳng hạn các em đặt tính cộng trừ số thập phân như số tự nhiên nên dấu phẩy chưa thẳng hàng, dẫn đến sai kết quả tính. Bằng những ví dụ cụ thể, giáo viên hướng dẫn học sinh thực hiện cộng trừ số thập phân qua nhận biết sự tương tác giữa các phép cộng trừ số thập phân (lớp 5) với các phép cộng trừ số tự nhiên (các lớp dưới). Giáo viên lưu ý cho học sinh thêm chữ số 0 vào bên phải phần thập phân để các số tham gia vào phép tính có cùng số chữ số ở phần thập phân. Ví dụ: Thực hiện các phép tính sau: 4,3 + 0,65 = . . . 35,25 - 8,774 = . . . 4,30 35,250 +0,65 - 8,774 4,95 26,476 Đồng thời nắm trình độ của cả lớp, giáo viên phải biết rằng mỗi em là một cá thể nên cần cá thể hoá trong dạy học Toán. Không gian lớp học cũng được khai thác triệt để để dạy học Toán. Ví dụ: Khi dạy bài: “Hình hộp chữ nhật”, “Thể tích hình hộp chữ nhật”, căn phòng các em ngồi học là hình hộp chữ nhât (trần có đóng la –phông hoặc bê-tông) và các em đang ngồi trong thể tích của hình hộp chữ nhật. Hay đến các dạng bài ôn tập, luyện tập – Ví dụ bài 1/168 cho học sinh phát hiện diện tích cần sơn hoặc quét vôi không phải là diện tích cửa sổ, cửa đi và nền nhà mà chỉ là diện tích xung quanh và diện tích trần nhà (diện tích một mặt đáy). Quyển sách tiếp theo mà ngươì giáo viên cần nghiên cứu là chương trình sách giáo khoa, các tài liệu liên quan khác. 3.2. Nghiên cứu chương trình, sách giáo khoa hoặc các tài liệu dạy học: Tôi xem lại chương trình cả cấp học và lớp học mà tôi được phân công, bắt đầu từ mục tiêu môn học. Đồng thời tìm hiểu trước để nắm toàn bộ nội dung sách giáo khoa, từng chương, từng nhóm kiến thức . .. khối lớp mà tôi sẽ dạy. Học xong Toán l ... Như vậy việc dạy toán không bó hẹp trong giờ toán. Nó sẽ hình thành một kĩ năng học tập, chiếm lĩnh khoa học và có vai trò quan trọng trong đời sống. Cùng với những việc làm trên, giáo viên cần kết hợp lựa chọn phương pháp dạy và học. 3.3. Lựa chọn phương pháp và chuẩn bị câu hỏi mang tính hệ thống: Trong một bài học, giáo viên nên chú ý phương pháp dạy một cách có hệ thống, từ phần kiểm tra bài cũ đến kiến thức trong bài mới, một cách sáng tạo, không nhất thiết phải lặp lại một cách máy móc tất cả các ví dụ trong sách giáo khoa. Dạy học trên cơ sở tổ chức và hướng dẫn các hoạt động tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Tạo môi trường khuyến khích từng học sinh chủ động và tích cực học tập đem lại kết quả học tập cao nhất cho từng đối tượng học sinh. Giáo viên cần có hệ thống câu hỏi một cách tổng hợp để giúp học sinh tư duy tốt, hạn chế câu hỏi vụn không mang tác dụng cho các em. Trong quá trình dạy học bài mới, giáo viên nên đặt nhiều tình huống có vấn đề giúp học sinh tranh luận, nhận xét trong từng bài học. Có như vậy, học sinh mới thấy thích thú vì tự mình phát hiện ra kiến thức đó. Qua đó giúp các em nhớ lâu và hiểu bài tốt hơn. Giáo viên nên chú ý tránh tiết học với không khí căng thẳng nặng nề. Muốn vậy trong tiết học, giáo viên tổ chức cho các em thi đua làm bài tập theo tổ nhóm và tuyên dương khen ngợi, khuyến kích để học sinh thích thú và cố gắng hơn. Tổ chức giờ học sao cho mọi học sinh đều hoạt động học tập, kể cả học sinh chưa hoàn thành một cách chủ động, tự lực trong mọi khâu để đạt kết quả cao nhất cho từng cá thể. Sử dụng linh hoạt nhiều hình thức và phương pháp dạy học để thu hút học sinh vào hoạt động dạy và học. Giáo viên cố gắng không làm thay, nói thay, nghĩ thay cho học sinh; dạy học theo từng nhóm đối tượng; trân trọng và khuyến khích mọi suy nghĩ của học sinh; chuẩn bị tiềm lực để đáp ứng sự phát triển của học sinh. Giáo viên giúp học sinh tự đánh giá kết quả bài làm của mình, của bạn. Giáo viên cần chuẩn bị đầy đủ đồ dùng dạy học và sử dụng có hiệu quả nhất định trong từng tiết dạy. 3.4. Chuẩn bị đồ dùng dạy học, phương tiện và hình thức tổ chức dạy học: Trong mục này cần ghi rõ đồ dùng trực quan cần chuẩn bị, các phương tiện này dùng cho hoạt động nào, vào lúc nào. Đồ dùng, các phương tiện góp phần không nhỏ tạo ra hiệu quả giờ dạy. Khi chuẩn bị đồ dùng dạy học, giáo viên cần xác định mục đích của đồ dùng đó là gì? Nó được sử dụng vào lúc nào và cách sử ra sao? Không nên sử dụng chúng một chúng tuỳ tiện mà không nắm rõ mục đích sử dụng. Ví dụ: Để hình thành diện tích hình tam giác từ cách tính diện tích hình chữ nhật mà các em đã được học ở lớp dưới, giáo viên cho học sinh sử dụng hai mảnh bìa là 2 hình tam giác bằng nhau, sau khi đã kiểm tra bài cũ nêu đặc điểm hình tam giác - Lấy một hình tam giác đó, cắt theo đường cao để thành hai mảnh tam giác 1và 2. - Ghép hai mảnh 1 và 2 vào hình tam giác còn lại để được hình chữ nhật. - Sau đó cho học sinh nhận biết chiều cao hình tam giác (h) chính là chiều rộng hình chữ nhật (b), cạnh đáy hình tam giác (a) chính là chiều dài hình chữ nhật (a). - Từ 2 hình tam giác ghép thành 1 hình chữ nhật và quy tắc, công thức tính diện tích diện tích hình chữ nhật, học sinh phát hiện và tự hình thành quy tắc, công thức tính diện tích hình tam giác Shcn= a x b è Shtg= ( a x h ) : 2 Để phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh, trong khi hình thành công thức tính, giáo viên cho học sinh thực hành trước và tự phát hiện, giáo viên chú ý giúp đỡ học sinh còn lúng túng, sau đó chốt ý khắc sâu cho các em. 3.5. Phân phối thời gian dự kiến cho từng hoạt động: Một tiết học trung bình từ 38-40 phút, vì vậy việc dự tính thời gian cho từng hoạt động dạy học rất cần thiết. Giờ dạy Toán có nhiệm vụ hình thành kiến thức mới và thực hành, đồng thời khắc sâu cho từng hoạt động, không xem nhẹ một kĩ năng nào. Vậy yêu cầu người giáo viên có một kiến thức vững vàng để xử lí kịp thời tất cả các tình huống mà học sinh thắc mắc qua tiếp thu bài cũng như phát hiện mới do các em nêu ra. Chẳng hạn bài 2 - Tiết “Luyện tập” SGK/30, giáo viên lựa chọn khắc sâu sau khi đã chấm bài xong một hoặc hai trong bốn bài tập mà các em đã làm còn lúng túng. Cụ thể: 2m29 dm2 > 29dm2 hay 4cm25mm2 = cm2 209 dm2 Mục đích là giúp các em đã hiểu, càng khắc sâu thêm qua việc các em trình bày cách làm vì: 2m2 = 200dm2 + 9dm2 = 209dm2 nên 2m29dm2 > 29dm2 . Còn các em còn lúng túng sẽ hiểu hơn qua nắm lại mối quan hệ gấp kém nhau một 100 lần của chúng. Khi dạy toán phải cân nhắc kĩ lưỡng dạy gì và không dạy cái gì. Nội dung nào là cần thiết, cần khắc sâu, nội dung nào các em chưa nắm vững giáo viên cần bám sát từng đối tượng học sinh để đảm bảo vừa ôn – giảng – luyện hoặc luyện – ôn – giảng . . . Ví dụ bài: “Ôn tập và bổ sung giải toán” SGK/18, sau khi qua phần ôn tập, giáo viên cho học sinh luyện tập ngay bài 1/19, sau đó mới khắc sâu, rồi tiếp tục cho các em tự phát hiện và thực hành tiếp bài 2. Lúc này giáo viên cần quan tâm hơn học sinh chua hoàn thành. Trong khi dạy cho các em, giáo viên cần hình thành kĩ năng tính toán và kĩ năng trình bày cho học sinh. 4. Hiệu quả của đề tài: Trong 2 năm học 2016-2017 và 2017-2018, học sinh lớp 5 do tôi chủ nhiệm đều hoàn thành chương trình Tiểu học 100%, nên kết quả so sánh chỉ có HST và HSH. Kết quả được lấy từ bài kiểm tra cuối năm, năm học 2016-2017 là lúc chưa áp dụng đề tài, tôi bắt đầu áp dụng đề tài từ năm học 2017-2018. Sau đây là kết quả của đề tài: Năm học TSHS HST HSH SL % SL % 2016-2017 21 4 19 17 81 2017-2018 22 9 40,9 13 59,1 Mặc dù vẫn còn một số em kĩ năng tính toán còn hạn chế nhưng đã hình thành được kĩ năng cơ bản về cộng, trừ, nhân, chia và giải toán có lời văn. Các em đã yêu thích môn toán và tích cực, chủ động hơn khi học toán. III. KẾT LUẬN: 1. Đúc kết lại những nội dung chính đã trình bày: Đối với nhà trường, Toán học là một bộ môn khoa học rất quan trọng và cần thiết cho học sinh. Môn Toán trong Trường Tiểu học còn góp phần làm cho học sinh phát triển toàn diện: góp phần hình thành ở các em những cơ sở của thế giới quan khoa học, góp phần rèn luyện trí thông minh; góp phần xây dựng những tình cảm, thói quen, đức tính tôt đẹp của con người mới, v.v... Ngay từ đầu bậc tiểu học là bậc học nền tảng của hệ thống giáo dục. Thông qua các hoạt động học tập toán để phát triển đúng mức một số khả năng trí tuệ và thao tác tư duy quan trọng nhất như: so sánh, phân tích, tổng hợp, trừu tượng hóa, khái quát hóa, cụ thể hóa, lập luận có căn cứ, bước đầu làm quen với những chứng minh đơn giản... Hình thành tác phong học tập và làm việc có suy nghĩ, có kế hoạch, có kiểm tra, có tinh thần hợp tác, độc lập và sáng tạo, có ý chí vượt qua khó khăn, cẩn thận, kiên trì, tự tin.... Đào tạo mầm non của đất nước là công việc hết sức quan trọng, đào tạo nên con người có ích cho xã hội là một việc làm không chỉ một người làm nên mà phải là cả xã hội; mà người đào tạo nên nhân cách tri thức trẻ là người giáo viên. Công việc ấy phải được thực hiện thường xuyên, liên tục, hằng ngày, mọi lúc. Vì thế mỗi người giáo viên chúng ta là một tấm gương sáng cho học sinh noi theo. Con đường đi đến thành công là một chặng đường dài, vì thế với những phương pháp rèn luyện kĩ năng tính toán cho học sinh với kết quả khả quan, không khó khăn gì khi thực hiện. 2. Đề ra biện pháp triển khai, áp dụng đề tài vào thực tiễn: Sau khi áp dụng các biện pháp trên, tôi nhận thấy một số học sinh chưa hoàn thành từ chỗ lười học nay đã học tiến bộ nhiều nên siêng năng hơn, không còn lo lắng, sợ sệt khi gặp bài toán khó, cho rằng khả năng mình làm không được. Các em học sinh chưa hoàn thành nay đã cố gắng vươn lên. Để có được điều đó tôi đã tiến hành như sau: - Tìm hiểu đặc điểm, trình độ từng đối tượng học sinh mà tôi trực tiếp giảng dạy. - Phân loại đối tượng học sinh để có hướng khắc phục cụ thể. - Động viên, khuyến khích kịp thời học sinh có tiến bộ. - Nghiên cứu chương trình thay sách giáo khoa, sách tham khảo, tạp chí giáo dụcvà học hỏi ở đồng nghiệp, dự đoán các tình huống có thể xảy ra và cách giải quyết tình huống đó. - Lựa chọn phương pháp tiếp cận với từng đối tượng học sinh qua các ví dụ cụ thể, thực tế mà các em thường gặp hằng ngày. - Phải tìm ra nguyên nhân và biện pháp khắc phục sai lầm mà các em thường mắc phải. - Chú ý rèn luyện kĩ năng tính toán cho học sinh cùng với hệ thống, khái quát kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo thật sự lô gíc. - Giáo viên phải có tinh thần, trách nhiệm, yêu nghề mến trẻ. 3. Nêu kiến nghị, đề xuất (nếu có): 3.1. Đối với Phòng Giáo dục: Thường xuyên mở các lớp tập huấn chuyên môn, nghiệp vụ cho giáo viên các trường được tham gia học tập nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ. Cung cấp kịp thời về trang thiết bị dạy học. 3.2. Đối với nhà trường: Tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên được đi học nâng cao chuyên môn nghiệp vụ. Thường xuyên thăm lớp dự giờ để rút kinh nghiệm cho giáo viên nâng cao chất lượng dạy học. Tạo điều kiện phát huy những năng lực, sự sáng tạo trong giảng dạy của từng cán bộ giáo viên nhằm nâng cao chất lượng dạy và học. 4. Hướng phát triển của đề tài: Nếu kết quả học tập môn Toán 5 tiến bộ và ổn định qua nhiều năm, tôi sẽ đề xuất một số biện pháp như đã trình bày ở trên với tổ chuyên môn trong nhà trường, cùng với sự đóng góp ý kiến của các đồng nghiệp cùng giảng dạy, sẽ nhân rộng đề tài đã được hoàn thiện khối lớp 5 trong toàn trường. Trên đây là đề tài sáng kiến của bản thân tôi trong những năm công tác, thực tế giảng dạy từ năm học 2011-2012 đến nay. Kính mong được Ban giám hiệu, chuyên môn nhà trường và Phòng giáo dục, bạn bè đồng nghiệp góp ý bổ sung cho hoàn thiện hơn./. Vạn Khánh, ngày 3/12/2018 Người viết Lưu Quốc Thịnh TÀI LIỆU THAM KHẢO Sách giáo khoa toán 5, sách giáo viên toán 5. Tạp chí giáo dục: Một số vấn đề cần lưu ý về chương trình, sách giáo khoa lớp 5. Đặc san 5/2006 - kì 1. Dạy học môn toán ở bậc tiểu học.
File đính kèm:
- skkn_mot_so_bien_phap_nang_cao_chat_luong_day_hoc_mon_toan_c.doc