SKKN Rèn kĩ năng nghe nói cho học sinh Lớp 3 qua Phân môn Tập Làm Văn

Như chúng ta đã biết” Con người tồn tại trong thế giới này có thể thiếu

nhiều thứ nhưng không thể thiếu giao tiếp”, điều đó thể hiện giao tiếp đóng

một vai trò hết sức quan trọng. Do đó việc rèn luyện kĩ năng nghe nói cho học

sinh tiểu học, nhằm giúp các em có năng lực dùng Tiếng Việt để học tập , để

giao tiếp bằng lời nói trong môi trường hoạt động lứa tuổi là một trong những

mục tiêu của chương trình Tiếng việt 2009 - 1010. Để thực hiện tốt mục tiêu

này mỗi phân môn của Tiếng việt có nhiệm vụ hình thành và phát triển cho

học sinh kĩ năng sử dụng Tiếng việt trên bình diện lời nói. tuy nhiên nhiệm vụ

này được tập trung hơn cả ở phân môn Tập làm văn.

Phân môn tập làm văn tiếp nói một cách tự nhiên các bài học khác nhau

của môn Tiếng Việt từ tập đọc, chính tả, ngữ pháp. Nhằm giúp học sinh có

năng lực tạo lập và sản sinh ngôn bản. Đồng thời nó rèn luyện kĩ năng nghe

nói đọc, viết cho học sinh đóng vai trò hết sức quan trọng.

pdf 13 trang Huy Quân 31/03/2025 320
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Rèn kĩ năng nghe nói cho học sinh Lớp 3 qua Phân môn Tập Làm Văn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Rèn kĩ năng nghe nói cho học sinh Lớp 3 qua Phân môn Tập Làm Văn

SKKN Rèn kĩ năng nghe nói cho học sinh Lớp 3 qua Phân môn Tập Làm Văn
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 
RÈN KĨ NĂNG NGHE NÓI CHO 
HỌC SINH LỚP 3 QUA PHÂN MÔN 
TẬP LÀM VĂN 
 Họ và tên: Nguyễn Thị Thoả 
 Chức vụ: P. Hiệu trưởng 
 Phần mở đầu 
I. Lí do chọn đề tài: 
Như chúng ta đã biết” Con người tồn tại trong thế giới này có thể thiếu 
nhiều thứ nhưng không thể thiếu giao tiếp”, điều đó thể hiện giao tiếp đóng 
một vai trò hết sức quan trọng. Do đó việc rèn luyện kĩ năng nghe nói cho học 
sinh tiểu học, nhằm giúp các em có năng lực dùng Tiếng Việt để học tập , để 
giao tiếp bằng lời nói trong môi trường hoạt động lứa tuổi là một trong những 
mục tiêu của chương trình Tiếng việt 2009 - 1010. Để thực hiện tốt mục tiêu 
này mỗi phân môn của Tiếng việt có nhiệm vụ hình thành và phát triển cho 
học sinh kĩ năng sử dụng Tiếng việt trên bình diện lời nói. tuy nhiên nhiệm vụ 
này được tập trung hơn cả ở phân môn Tập làm văn. 
Phân môn tập làm văn tiếp nói một cách tự nhiên các bài học khác nhau 
của môn Tiếng Việt từ tập đọc, chính tả, ngữ pháp.. Nhằm giúp học sinh có 
năng lực tạo lập và sản sinh ngôn bản. Đồng thời nó rèn luyện kĩ năng nghe 
nói đọc, viết cho học sinh đóng vai trò hết sức quan trọng. 
Chương trình tập làm văn lớp 3 đã đẩy mạnh phát triển kĩ năng nghe nói 
thông qua hệ thống bài tập, chủ yếu là dạng bài: nghe và kể lại câu chuyện; 
thảo luận nhóm, tổ chức cuộc họp... 
Vậy luyện nghe nói cho học sinh thế nào để hiệu quả? Làm thế nào để định 
hướng, hướng dẫn học sinh tự mình khám phá ra chân lí. tự mình tìm ra kiến 
thức...? Tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài “ Rèn kĩ năng nghe nói cho học sinh 
lớp 3 qua phân môn tập làm văn”, để hiểu rõ hơn về chướng trình Tập làm văn 
3, đồng thời tìm ra một số biện pháp rèn kĩ năng nghe nói cho học sinh nhằm 
phục vụ cho quá trình chỉ đạo giảng dạy phân môn này. 
II. Lịch sử vấn đề: 
Nghiên cứu, khảo sát thực trạng dạy học nói chung và dạy học luyện nghe 
nói riêng cũng như các ý kiến nhận xét chương trình sách giáo khoa hiện hành 
là một vấn đê không hoàn toàn mới lạ. Một số bài viết ở Tạp chí giáo dục. 
giáo dục tiều học của Bộ giáo dục và đào tạo đã đề cập đến một số vấn đề về 
sách giáo khoa Tiểu học ( Chương trình mới) 
Trong bài “ Cách mạng về phương pháp sẽ đem lại bộ mặt mới, sức sống 
mới cho giáo dục ở thời đại mới mới” bài báo viết “ Muốn đào tạo con người 
khi vào đời là con người tự chủ năng động thì phương pháp dạy học phải 
hướng vào việc khơi dậy rèn luyện và phát triển khả năng nghĩ và làm một 
cách tự chủ, năng động và sáng tạo ngay trong lao động và học tập ở nhà 
trường” hay “ Thầy giáo không còn là người truyền đạt kiến thức có sãn mà 
làm người định hướng, hướng dẫn cho học sinh tự mình khám phá ra chân lí 
kiên thức mới. 
Nguyễn Trí trong cuốn “ Dạy và học Tiếng việt ở Tiểu học theo chương 
trình mới” có bàn về vấn đề rèn luyện 4 kĩ năng: nghe, nói , đọc, viết cho học 
sinh. Tác giả cho rằng việc rèn luyện 4 kĩ năng này là cần thiết, không nên 
xem nhẹ kĩ năng nào. 
Đào Ngọc trong cuốn “ Rèn luyện kĩ năng sử dụng Tiếng việt đã bàn vê 
việc rèn luyện kĩ năng nghe, kĩ năng nói, kĩ năng viết và kĩ năng đọc, đã đưa 
ra một số điều kiện và công tác chuẩn bị cho việc rèn luyện kĩ năng nghe, nó,i 
đọc, viết. 
Báo giáo dục thời đại có bài viết “ rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp 3 qua 
phân môn Tập làm văn” đã đánh giá về những ưu thế về việc luyện kĩ năng 
nói cho học sinh và đề xuất một số ý kiến phục vụ cho quá trình giảng dạy của 
giáo viên. 
Tuy nhiên những bài viết trên đang dừng lại ở một mặt nào đó, chưa đi sâu 
vào nghiên cứu việc rèn luyện kĩ năng nghe nói cho học sinh lớp 3 qua phân 
môn Tập làm văn một cách toàn diện. Nhưng đó là nhứng tài liệu có tính chất 
gợi mở cho chúng ta có thểm dữ liệu để nghiên cứu đê tài. 
III. Đối tượng nghiên cứu: 
- Hệ thống bài tập trong sách giáo khoa phân môn Tập làm văn. 
- Phương pháp dạy học rèn kĩ năng nghe - nói cho học sinh lớp 3 qua 
phân môn Tập làm văn. 
IV. Mục đích nghiên cứu: 
- Nắm vững đặc điểm nghe nói của học sinh lớp 3 và những yêu cầu về kĩ 
năng nghe nói đặt ra cho học sinh lớp 3. 
- Nắm vững nội dung luyện nghe nói trong phân môn Tập làm văn. 
- Đưa ra một số biện pháp dạy học thích hợp cho việc luyện nghe nói. 
- Giúp bản thân nắm vững chương trình nội dung luyện nghe nói để vận 
dụng vào việc chỉ đạo giảng dạy phân môn này . 
V. Nhiệm vụ nghiên cứu: 
1. Tìm hiều sơ sở lí luận của đề tài. 
2- Rèn luyện kĩ năng nghe nói cho học sinh lớp 3 quan phân môn Tập làm 
văn . 
VI. Phương pháp nghiên cứu: 
-Phương pháp nghiên cứu lí thuyết: nhằm tìm hiểu cơ sở lí luận của đề tài. 
- Phương pháp quan sát, đánh giá. 
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm và nhiều phương pháp khác. 
VII. Cấu trúc đề tài: Gồm 2 chương: 
Chương I: Cơ sở lí luận 
1. Hoạt động nghe nói của học sinh Tiểu học 
2. Đặc điểm nghe nói của học sinh lớp 3. 
3. Vị trí, vai trò của phân môn Tập làm văn. 
Chương II: Cơ sở thực tiễn: Rèn kĩ năng nghe nói cho học sinh lớp 3 
qua phân môn Tập làm văn. 
1. Tổng quan về chương trình Tập làm văn 3 
2. Rèn kĩ năng luyện nghe nói cho học sinh lớp 3 qua phân môn Tập làm 
văn. 
 3.. Một số biện pháp rèn kỹ năng nghe nói cho học sinh lớp 3 
 Phần nội dung 
Chương I: Cơ sở lí luận và các vấn đề có liên quan đến đề tài. 
I.Hoạt động nghe, nói của học sinh tiểu học: 
1. Hoạt động nghe nói: 
a. Hoạt động nói: 
Nói là hoạt động phát tin nhờ sử dụng bộ máy phát âm. Đầu tiên người nói 
phải xác định được nôi dung lời nói. lựa chọn ngôn ngữ để diễn tả nội dung 
đó. Sau đó người nói sử dụng bộ máy phát âm để truyền đi lới nói đã được xác 
định. 
Từ đặc điểm kiểu giao tiếp, người nói đến hai dạng nói : “ Đối thoại và độc 
thoại”. Mỗi loại có những đặc điểm riêng. 
Đối thoại: là dạng nói thường được sử dụng trong các hoạt động sinh hoạt 
hằng ngày. Trong các dạng nói, đối thoại được sử dụng nhiều hơn cả. Đó là 
dạng nói trong đó có sự chuyển đổi vai. lúc này là người nói, lúc sau lại là 
người nghe. Sự chuyển đổi vai nói - nghe, nghe- nói như vậy tạo nên hoạt 
động đối thoại. 
Trong đối thoại phát ngôn của người nói mở đầu đối thoại thường mang 
tính chất tác động, kích thích. Những vấn đề được nêu ra ở phát ngôn này là 
cơ sở để tạo ra hàng loạt những phát ngôn tiếp sau những lời đối thoại khác. 
 Sự nối tiếp ý giữa các lời đối thoại tạo nên sự mạch lạc, chặt chẻ cho nội 
dung. Nếu giữa các lời đối thoại không có sự liên tục về ý, lời thoại sau không 
tiếp tục ý trong lời thoại trước và lời thoại trước không phải là tiền đề là kích 
thích của lời thoại sau thì cuộc đối thoại sẽ trở nên rời rạc, tẻ nhạt và dễ dàng 
rơi vào tình trạng “ dây cà, dây muống”. 
Trong đối thoại người ta thường sử dụng các yếu tố phi ngôn ngữ như cử 
chỉ, điệu bộ, ánh mắt, giọng cười..hổ trợ. Trong nhiều trường hợp các yếu tố 
phi ngôn ngữ giúp người nghe hiểu chính xác, đúng đắn ý người nói và có tác 
dụng hấp dẫn người nghe. 
*Độc thoại: Thường diễn ra giữa hai hay nhiều người tham gia giao tiếp, 
nhưng trong đó chỉ có một người nói, còn người khác giữ vai trò là người 
nghe, người tiếp nhận thông tin. Người độc thoại thường giữ vai trò chủ động 
trong việc lựa chọn nội dung, định hướng nói, trong việc xác định phương 
pháp nói. Song người nghe, bằng cách phản ứng của mình, cũng có tác động ít 
nhiều đến người nói. Người nói khôn ngoan cần đón nhận các phản ứng này 
để sữa đổi nội dung hoặc cách nói cho phù hợp.Lời độc thoại thường diễn ra 
liên tục. Do đó người nói ít có thời gian ngừng nghỉ để chuẩn bị. Điều này đòi 
hỏi người nói phải chuẩn kỹ nội dung cần nói. Nếu không chuẩn bị chu đáo sẽ 
dẫn tới tình trạng nói lộn xộn hoặc luốn cuống không nói được. Người đọc 
thoại cũng có thể dùng các yếu tố phù trợ như: ánh mắt, điệu bộ, cử chỉ. Điều 
cần nhớ là không nên lạm dụng để tự biến thành “ anh hề” vụng về trên sân 
khấu. Dạng đọc thoại có chia thành hai loại: đọc thoại trực tiếp có sự hiện diện 
của người nghe và độc thoại gián tiếp không có người nghe trước mắt. 
Kể chuyện được coi là dạng đặc biệt của độc thoại.. Kể chuyện là lời độc 
thoại mang tính nghệ thuật cao nhằm truyền đến cho người đọc một văn bản 
nghệ thuật ( có trong sách vở, trong cuộc sống hoặc do chính người kể xây 
dựng nên.) 
Sự thành công của kể chuyện do nhiều yếu tố tạo nên: nôi dung câu 
chuyện, nghệ thuật kể, khả năng người kể cảm nhận đối với câu chuyệnsử 
dụng ngữ điệu và các yếu tố phi ngôn ngữ ( điệu bộ, cử chỉ ,nét mặt) để hổ 
trợ. 
b. Hoạt động nghe: 
Nghe là một hoạt động nhận tin nhờ bộ máy thính giác. Đầu tiêu người 
nghe phải nghe chính xác, đày đủ thông báo. Sau đó nhờ hoạt động tư duy mà 
chúng ta hiểu được nội dung các thông báo. 
Căn cứ vào kiểu giao tiếp chúng ta có hai hình thức nghe: nghe đối thoại và 
nghe đọc thoại. 
Nghe đối thoại và nghe độc thoại bên cạnh những đặc điểm giống nhau 
như: chúng phụ thuộc vào chất lượng âm thanh, tiếng ồn, độ chú ý hay phân 
tán của người nghe. 
Đối với nghe đối thoại thì người nghe đối thoại là người trong cuộc, là 
người góp phần xác lập nội dung cuộc hội thoại luôn luôn có sự chuyển đổi, 
từ vai trò người nghe sang người nói và ngược lại. Đề tài cuộc giao tiếp có thể 
xác định trước song nội dung cụ thể luôn luôn đòi hỏi người nghe phải theo 
sát cuộc hội thoại từng giây, từng phút, phải hiểu nhanh mọi thông báo để có 
những ứng xử kịp thời. Hai đặc điểm đó tạo nên thuận lợi và khó khăn cho 
hình thức nghe đối thoại. 
Còn đối với nghe độc thoại thì người nghe độc thoại chỉ đó vai trò người 
nhận tin không có sự chuyển đổi vai như trong hội thoại. Nội dung của độc 
thoại do người nói quy định. Người nghe không tham dự trực tiếp vào việc xác 
lập nội dung nên khó nắm bắt nó dù đề tài đã được biết trước. tuy vậy bằng 
cách biểu thị thái độ (lời đề nghị, thái độ tán thường hay phản đối) 
người nghe sẽ ảnh hưởng đến người nói buộc họ phải điểu chỉnh nội dung 
bằng cách nói. 
2. Hoạt động nghe nói của học sinh tiểu học: 
a. Hoạt động nói: 
 Ở bậc Tiều học, học sinh nói trong nhiều trường hợp. Các em nói khi chơi 
đùa, tra

File đính kèm:

  • pdfskkn_ren_ki_nang_nghe_noi_cho_hoc_sinh_lop_3_qua_phan_mon_ta.pdf