SKKN Một số giải pháp nhằm thực hiện tốt công tác xã hội hoá giáo dục tại Trường Tiểu học Yên Phương

Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc Lần thứ IX xác định: “Giáo dục là

quốc sách hàng đầu. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển, nhằm

chuẩn bị tốt nhất về nguồn lực đáp ứng yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hoá,

hiện đại hoá đất nước”, “đổi mới giáo dục phổ thông nhằm không ngừng

nâng cao chất lượng giáo dục và chuẩn bị nguồn lực về con người, nhằm rút

ngắn khoảng cách giáo dục so với các nước trong khu vực và trên thế giới,

chuẩn bị tiềm lực để xây dựng nền kinh tế tri thức”.

Văn kiện Đại hội X, báo cáo Chính trị tiếp tục chỉ rõ: “Đổi mới toàn

diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao - coi

trọng hàng đầu việc bảo đảm và nâng cao chất lượng dạy và học, điều chỉnh

và khắc phục tình trạng quá tải và thực hiện nghiêm túc chương trình giáo

dục và sách giáo khoa phổ thông có tính khoa học, đại chúng và phổ cập,

phù hợp tâm lý lứa tuổi và điều kiện cụ thể của Việt Nam. Hoàn thiện hệ

thống đánh giá và kiểm định chất lượng giáo dục. Thực hiện xã hội hoá giáo

dục, đổi mới cơ chế quản lý, tăng cường hợp tác quốc tế về giáo dục và đào

tạo, phấn đấu đến năm 2010 năng lực khoa học và công nghệ nước ta đạt

trình độ các nước trong khu vực và đến năm 2020 cơ bản nước ta trở thành

nước công nghiệp”.

Giáo dục tiểu học là bậc học nền tảng nhằm tạo cơ sở ban đầu để hình

thành nhân cách con người, phẩm chất năng lực của công dân, đào tạo nguồn

nhân lực cho tương lai theo hướng toàn diện, năng động và sáng tạo, có niềm

tự hào dân tộc, có đạo đức và ý chí vươn lên góp phần làm cho dân giàu,

nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đáp ứng yêu cầu của sự

nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

pdf 22 trang Huy Quân 29/03/2025 80
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số giải pháp nhằm thực hiện tốt công tác xã hội hoá giáo dục tại Trường Tiểu học Yên Phương", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Một số giải pháp nhằm thực hiện tốt công tác xã hội hoá giáo dục tại Trường Tiểu học Yên Phương

SKKN Một số giải pháp nhằm thực hiện tốt công tác xã hội hoá giáo dục tại Trường Tiểu học Yên Phương
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM THỰC 
HIỆN TỐT CÔNG TÁC XÃ HỘI 
HOÁ GIÁO DỤC TẠI TRƯỜNG 
TIỂU HỌC YÊN PHƯƠNG 
MỤC LỤC 
 Trang 
PHẦN I: MỞ ĐẦU 
CHƯƠNGI:CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA CÔNG TÁC 
XÃ HỘI HOÁ GIÁO DỤC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 
1- Cơ sở lý luận 
2 
3 
1.1 Vai trò của giáo dục 3 
1.2 Vai trò của việc nâng cao chất lượng giáo dục trong thời kỳ CNH-HĐH 4 
1.3 Vai trò của công tác xã hội hoá giáo dục 5 
1.4 Nội dung của công tác xã hội hoá giáo dục 6 
2- Cơ sở thực tiễn 6 
2.1 Nhưng thành tựu giáo dục của cả nước trong mấy năm qua 7 
2.2 Những tồn tại trong công tác xã hội hoá giáo dục ở nước ta hiện nay 7 
PHẦN II: NỘI DUNG 
CHƯƠNG II:THỰC TRẠNG GIÁO DỤC CỦA NHÀ TRƯỜNG 
8 
 1 - Đặc điểm tình hình 8 
1.1 Tình hình địa phương 8 
1.2 Tình hình chung của nhà trường 9 
2 - Quá trình thực hiện công tác xã hội hoá giáo dục tại trường tiểu học 
Yên Phương 9 
2.1 Những kết quả đạt được và nguyên nhân 12 
2.2 Những hạn chế còn tồn tại 12 
2.3 Những vấn đề đặt ra cần giải quyết 13 
CHƯƠNG III: MỤC TIÊU VÀ GIẢI PHÁP CÔNG TÁC XÃ HỘI 
HÓA GIÁO DỤC 
 1 - Mục tiêu 
14 
 2 - Một số giải pháp cơ bản 14 
PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 19 
PHẦN I: MỞ ĐẦU 
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc Lần thứ IX xác định: “Giáo dục là 
quốc sách hàng đầu. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển, nhằm 
chuẩn bị tốt nhất về nguồn lực đáp ứng yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hoá, 
hiện đại hoá đất nước”, “đổi mới giáo dục phổ thông nhằm không ngừng 
nâng cao chất lượng giáo dục và chuẩn bị nguồn lực về con người, nhằm rút 
ngắn khoảng cách giáo dục so với các nước trong khu vực và trên thế giới, 
chuẩn bị tiềm lực để xây dựng nền kinh tế tri thức”. 
Văn kiện Đại hội X, báo cáo Chính trị tiếp tục chỉ rõ: “Đổi mới toàn 
diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao - coi 
trọng hàng đầu việc bảo đảm và nâng cao chất lượng dạy và học, điều chỉnh 
và khắc phục tình trạng quá tải và thực hiện nghiêm túc chương trình giáo 
dục và sách giáo khoa phổ thông có tính khoa học, đại chúng và phổ cập, 
phù hợp tâm lý lứa tuổi và điều kiện cụ thể của Việt Nam. Hoàn thiện hệ 
thống đánh giá và kiểm định chất lượng giáo dục. Thực hiện xã hội hoá giáo 
dục, đổi mới cơ chế quản lý, tăng cường hợp tác quốc tế về giáo dục và đào 
tạo, phấn đấu đến năm 2010 năng lực khoa học và công nghệ nước ta đạt 
trình độ các nước trong khu vực và đến năm 2020 cơ bản nước ta trở thành 
nước công nghiệp”. 
Giáo dục tiểu học là bậc học nền tảng nhằm tạo cơ sở ban đầu để hình 
thành nhân cách con người, phẩm chất năng lực của công dân, đào tạo nguồn 
nhân lực cho tương lai theo hướng toàn diện, năng động và sáng tạo, có niềm 
tự hào dân tộc, có đạo đức và ý chí vươn lên góp phần làm cho dân giàu, 
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đáp ứng yêu cầu của sự 
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 
Trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và 
hội nhập quốc tế, nguồn lực con người Việt Nam càng trở nên có ý nghĩa 
quan trọng, quyết định sự thành công của công cuộc phát triển đất nước. 
Giáo dục ngày càng có vai trò và nhiệm vụ quan trọng trong việc xây dựng 
một thế hệ người Việt Nam mới, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế -xã hội. 
Đảng ta đã xác định: “Sự nghiệp giáo dục là của nhà nước và của toàn dân”, 
vì vậy công tác xã hội hoá giáo dục càng có tầm quan trọng và ý nghĩa vô 
cùng to lớn trong giai đoạn hiện nay. 
Là người cán bộ quản lý trường tiểu học, chịu trách nhiệm trước 
Đảng, Nhà nước và nhân dân trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện việc 
dạy và học của một nhà trường Tiểu học. Tôi càng thấy mình cần xác định rõ 
hơn trọng trách, đầu tư hơn về tâm huyết, công sức, trí tuệ. Không ngừng 
nâng cao học tập để đưa nhà trường ngày một đi lên. Củng cố, duy trì, nâng 
cao chất lượng dạy và học của nhà trường nhằm xây dựng đơn vị từng bước 
đạt chuẩn quốc gia theo mục tiêu giáo dục của Đảng và Nhà nước đề ra. 
Bên cạnh đó, việc huy động nội lực của nhân dân để tham gia đóng 
góp trong công tác xây dựng cơ sở hạ tầng lại đạt kết quả rất thấp mà nguyên 
nhân căn bản vẫn là tính trông chờ, ỷ lại dai dẳng của thời kỳ quan liêu bao 
cấp còn sót lại mà chưa bứt phá lên được của mỗi người dân nơi đây. Công 
tác xã hội hoá vì thế mà còn kém phát triển. 
Là người quản lý nhà trường, việc đi sâu nghiên cứu và đề ra được 
những giải pháp mang tính thực tiễn và có khả năng thực thi để huy động tốt 
mọi nguồn lực cùng xây dựng nhà trường ngày cảng phát triển, vừa bảo đảm 
phù hợp với đường lối chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, vừa mang tính đột 
phá, lại vừa là cơ sở thực tiễn đòi hỏi trong giai đoạn hiện nay. Có như thế 
mới đảm bảo được yêu cầu mới đối với người quản lý giáo dục và là con 
đường ngắn nhất đưa nhà trường tiến tới đạt chuẩn quốc gia, tạo được uy tín 
và niềm tin của xã hội. 
Đề tài chỉ giới hạn đi sâu nghiên cứu thực trạng công tác xã hội hoá 
giáo dục của một nhà trường vùng đặc biệt khó khăn. Từ đó đề ra một số 
giải pháp thiết thực để nâng cao chất lượng bậc học, chủ yếu là công tác vận 
động quần chúng cùng tham gia làm công tác giáo dục, nhằm đưa nhà 
trường tiến tới đạt các tiêu chuẩn của một nhà trường tiểu học đạt chuẩn 
quốc gia. 
Nhìn nhận, đánh giá đồng thời có những giải pháp hữu hiệu chính là 
góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo trên địa bàn. Thúc đẩy 
giáo dục cộng đồng, đồng thời tạo điều kiện ổn định phổ cập giáo dục tiểu 
học; góp phần hoàn thành phổ cập trung học cơ sở. Tạo niềm tin vững chắc 
cho cấp uỷ Đảng, chính quyền các cấp và nhân dân địa phương. Cùng huyện 
nhà đưa nền giáo dục tiến kịp các huyện bạn trong xu thế phát triển của quốc 
gia và khu vực. 
CHƯƠNG I 
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA CÔNG TÁC 
XÃ HỘI HOÁ GIÁO DỤC Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC YÊN PHƯƠNG 
1. Cơ sở lý luận 
1.1 Vai trò của giáo dục 
Trong quá trình toàn cầu hóa ngày nay, nhiều quốc gia phương Tây 
càng chú trọng phát triển giáo dục, coi đấy như một nhiệm vụ quan trọng của 
nhà nước trong việc giữ gìn bản sắc dân tộc. Họ ý thức rất rõ rằng trong thế 
giới ngày càng trở nên “phẳng” và mọi thứ đều giống nhau, một dân tộc 
muốn “nhận diện” được so với các dân tộc khác chỉ có thể dựa vào bản sắc 
dân tộc và nếu bản sắc dân tộc không còn thì điều đó đồng nghĩa với thảm 
họa dân tộc ấy sẽ bị xóa sổ, hòa tan. 
Mặt khác, ngoài chức năng bao trùm trên, giáo dục còn mang một 
nhiệm vụ không kém phần quan trọng, đó là đảm bảo sự tồn tại và phát triển 
hay cụ thể hơn là hiện thực hóa quyền bình đẳng về cơ hội vào đời và tạo 
dựng cuộc sống của mỗi cá nhân trong xã hội. Bởi, để đạt được điều đó thì 
họ phải có cơ hội, ai cũng như ai, tiếp thu những giá trị, tri thức và kỹ năng 
mà nền giáo dục đã đưa lại cho họ. 
Với ý nghĩa này, Hiến pháp của nước ta cũng coi “giáo dục và đào tạo 
là quốc sách hàng đầu”; “mục tiêu của giáo dục là hình thành và bồi dưỡng 
nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân” “học tập là quyền và nghĩa 
vụ của công dân” Cần lưu ý rằng trách nhiệm biến những chức năng ấy của 
giáo dục thành hiện thực thuộc về trọng trách của Nhà nước và của toàn dân. 
1.2 Vai trò của việc nâng cao chất lượng giáo dục trong thời kỳ 
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước 
Trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, công tác xã hội 
hoá giáo dục giữ vai trò rất quan trọng: 
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xu hướng phát triển của các nước 
trên thế giới. Đó cũng là con đường phát triển tất yếu của nước ta để đi lên 
mục tiêu "Xã hội công bằng văn minh, dân giàu nước mạnh" công nghiệp 
hoá, hiện đại hoá không chỉ là công cuộc xây dựng kinh tế mà chính là quá 
trình biến đổi cách mạng sâu sắc với lĩnh vực đời sống xã hội (kinh tế, chính 
trị, khoa học của con người) làm cho xã hội phát triển lên một trạng thái 
mới về chất. Sự thành công của quá tình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi 
hỏi ngoài môi trường chính trị ổn định, phải có nguồn lực cần thiết như 
nguồn lực con người, vốn tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật. 
Các nguồn lực này quan hệ chặt chẽ với nhau. Cùng tham gia vào quá trình 
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhưng mức độ tác động vào vai trò của chúng 
đối với toàn bộ quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá không giống nhau, 
trong đó nguồn nhân lực phải đủ về số lượng, mạnh về chất lượng. Nói cách 
khác nguồn nhân lực phải trở thành động lực phát triển. Nguồn nhân lực 
phát triển thì tất yếu công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải tiến hành để đáp 
ứng nhu cầu đó. 
Để thực hiện thành công quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất 
nước, chúng ta phải sử dụng đúng nguồn lực trong đó nguồn lực con người 
là nguồn lực quan trọng nhất. Để tạo ra sự thay đổi căn bản về chất lượng 
trong nguồn lực con người cần có hàng loạt những giải pháp thích ứng nhằm 
phát triển tốt yếu tố của con người trong sự nghiệp đi lên của đất nước. 
Chăm sóc đào tạo phát huy nguồn lực con người phục vụ cho công 
cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 
Vấn đề con người trong công cuộc đổi mới vì công nghiệp hoá, hiện 
đại hoá tập trung thành vấn đề quan trọng bậc nhất trong "kết cấu hạ tầng xã 
hội, kinh tế" tức là một trong những tiền đề cơ bản để phát triển xã hội, đi 
vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 
Đại hội VIII của Đảng ta là đại hội công nghiệp hoá, hiện đại hoá mở 
ra bước ngoặt lịch sử đưa nước ta tiến lên một thời kỳ phát triển toàn diện 
mỗi "Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát 
triển nhanh và bền vững". Vì vậy cần được tập trung và chăm sóc bồi dưỡng, 
đào tạo phát huy sức mạnh của con người Việt Nam thành lực lượng lao 
động xã hội, lực lượng sản xuất có đủ bản lĩnh và kỹ năng nghề nghiệp đáp 
ứng yêu cầu phát triển đất nước, đủ sức xây dựng và bảo vệ tổ quốc hợp tác 
cạnh tranh trong kinh tế thị trường mở cửa nhiều thành phần theo định 
hướng xã hội chủ nghĩa. Sức mạnh của con người và các dân tộc sống trên 
đất nước Việt Nam. Phải thể hiện thành sức mạnh của đội ngũ nhân lực, 
trong đó có bộ phận nhân 

File đính kèm:

  • pdfskkn_mot_so_giai_phap_nham_thuc_hien_tot_cong_tac_xa_hoi_hoa.pdf