SKKN Biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 4-5 tuổi của trường SOS, Đồng Hới, Quảng Bình thông qua trò chơi đóng vai theo chủ đề
Những phẩm chất tâm lý và những đặc điểm nhân cách của trẻ mẫu giáo được phát triển mạnh mẽ nhất là trong hoạt động vui chơi.
a. Hoạt động vui chơi ảnh hưởng mạnh tới sự hình thành tính chủ định của quá trình tâm lý. Nếu đứa trẻ không chú ý và nhớ những điều kiện của trò chơi thì nó sẽ hành động tự do dẫn đến nguy cơ bị các bạn cùng chơi không chơi cùng. Để trò chơi được thành công buộc đứa trẻ phải tập trung chú ý và ghi nhớ một cách chủ định.
b. Sự phát triển tư duy
Trong hoạt động vui chơi, đặc biệt là trò chơi đóng vai theo chủ đề, trẻ phải nhập vai và thực hiện các vai chơi vói vật thay thế trong khi hành động với vật thay thế trẻ suy nghĩ về đồ vật thực. Trẻ phải dựa vào các hình ảnh đã biết để thực hiện vai chơi của mình.
Ví dụ: Cô giáo thường có các hoạt động như: dạy trẻ đọc thơ, dạy hát, múa,v.v Từ đó hành động của trẻ bắt đầu rút gọn và mang tính khái quát và chuyển dần dần vào trong đầu. Trẻ bắt chước những việc làm của cô giáo.
c. Sự phát triển tưởng tượng
Tưởng tượng là một quá trình nhận thức, xây dựng hình ảnh mới dựng vào những hình ảnh đã biết.
Trong quá trình chơi trò chơi đóng vai theo chủ đề trẻ phải thực hiện các hành động của các vai chơi mà phụ thuộc vào vật thay thế. Từ đó trẻ buộc phải tưởng tượng ra hành động chơi. Như vậy hoạt động vui chơi quyết định sự hình thành và phát triển tưởng tượng ở lứa tuổi này.
d. Sự phát triển ngôn ngữ
Tình huống chơi đòi hỏi mỗi đứa trẻ tham gia vào trò chơi phải có một trình độ giao tiếp bằng ngôn ngữ nhất định.
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 4-5 tuổi của trường SOS, Đồng Hới, Quảng Bình thông qua trò chơi đóng vai theo chủ đề
MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành bài tập nghiên cứu này. Em đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của cô Mai Thị Liên Giang dạy môn khám phá khoa học. Em xin trân trọng gửi lời cảm ơn chân thành tới cô Mai Thị Liên Giang người đã hướng dẫn giúp đỡ em hoàn thành đề tài nghiên cứu này. Kính chúc cô mạnh khỏe công tác tốt. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứu này là riêng tôi. Các kết quả và số liệu trong đề tài là trung thực và chưa được công bố ở bất kỳ một công trình nào. Đồng Hới, 25 tháng 4 năm 2016 Sinh viên Nguyễn Thị Hằng A.PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Vui chơi là hoạt động luôn đi cùng và gắn bó với cuộc sống của con người từ thuở ấu thơ cho đến khi trưởng thành. Tuy nhiên nội dung và hình thức chơi ở mỗi giai đoạn, mỗi lứa tuổi có khác nhau song nó cùng chung một mục đích là thỏa mãn nhu cầu hoạt động của con người trong cuộc sống. Đối với trẻ mẫu giáo, vui chơi là hoạt động chủ đạo, qua chơi trẻ được phát triển chức năng tâm lý và hình thành nhân cách. Khi chơi cũng là dịp tốt để trẻ khám phá môi trường xung quanh, qua đó kích thích tính tò mò, khả năng quan sát, năng lực phán đoán, tí tưởng tượng của trẻ. Chính vì lẽ đó mà nhiều nhà giáo dục đã gọi: ”Trò chơi là trường học của cuộc sống”. Trẻ cần chơi như cần ăn no, mặc êm, cần được yêu thương. Trò chơi nuôi dưỡng tân hồn trẻ mà không có gì thay thế được. Mỗi dân tộc đều có một kho tàng phong phú trò chơi trẻ em được tích lũy và truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Nhà tâm lý học nổi tiếng người Pháp là Henri – Wallon (1879 – 1962), trong khi nghiên cứu tâm lý trẻ em cũng đã xem trò chơi của trẻ em là một hiện tượng xã hội đáng quan tâm, mà trò chơi đóng vai theo chủ đề chiếm một vị trí quan trọng đối với sự phát triển ngôn ngữ mẹ đẻ. Các nhà tâm lý học cho rằng, hoạt động vui chơi mà nồng cốt là trò chơi đóng vai theo chủ đề là hoạt động chủ đạo của trẻ mẫu giáo. Độ tuổi mẫu giáo nhỡ là chặng giữa tuổi mẫu giáo. Nó đã vượt qua thời kỳ chuyển tiếp từ độ tuổi ấu nhi lên để tiến tới một chặng đường phát triển tương đối ổn định. Có thể coi đây là một thời kỳ phát triển rực rỡ của những nét tâm lý đặc trưng cho tuổi mẫu giáo. Như vậy, trường Mần Non là môi trường thuận lợi nhất để trẻ phát triển, ở đây trẻ không những chăm sóc, giáo dục mà còn được vui chơi để thỏa mãn ước muốn làm người lớn với khả năng thực tế của mình. Trong khi chơi đứa trẻ học cách sử dựng đồ vật, đồ chơi do con người sang tạo ra. Học những quy tắc ứng xử giữa người với người trong xã hội tức là học làm người. Trẻ mẫu giáo có thể tham gia nhiều loại trò chơi như trò chơi đóng vai theo chủ đề, trò chơi đóng kịch, Mỗi loại trò chơi có tác dụng phát triển một mặt nhất định của trẻ. Nhưng trung tâm của hoạt động vui chơi đối với trẻ đóng vai theo chủ đề là loại trò chơi chủ yếu tạo ra nét đặc trưng trong trò chơi, trong đời sống tâm lí của trẻ mẫu giáo. Tại sao trẻ mẫu giáo thích chơi trò chơi đóng vai trò theo chủ đề, bởi qua chơi trẻ với cuộc sống của người lớn, trẻ muốn tự mình làm mội việc như người lớn, với khả năng của mình. Do vậy trò chơi nói chung va trò chơi đóng vai theo chủ đề nói riêng thực sự cần thiết cho trẻ Trong khi đó, ở các trường Mầm Non trò chơi đóng vai trò theo chủ đề chưa thực sự được quan tâm, trò chơi chưa là niềm vui, là niềm hạnh phúc của trẻ. Vậy vấn đề cấp thiết hiện nay là phải tăng cường tổ chức hướng dẫn các trò chơi một cách thường xuyên và nhất là trò chơi đóng vai trò chủ đề, phải có sự hướng dẫn tỉ mỉ, cụ thể để tạo cho trẻ cảm giác thoái mái, hứng thú, có như vậy chúng ta mới thực sự tạo cho trẻ niềm vui, niềm hạnh phúc Từ lý luận và thức tiễn với khả năng và niềm say mê hứng thú của mình trong một thời gian hạn hẹp em đã chọn đề tài: “ Biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 4-5 tuổi của trường SOS, Đồng Hới, Quảng Bình thông qua trò chơi đóng vai theo chủ đề ”. 2. Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở làm rõ thực trạng tổ chức trò chơi đóng vai trò theo chủ đề cho trẻ Mẫu Giáo ở một số trường Mầm Non ở Quảng Bình, đề xuất và vận dụng một số biện pháp tổ chức, hướng dẫn trò chơi đóng vai trò theo chủ đề của trẻ mẫu giáo nhỡ 4 - 5 tuổi nhằm nâng cao hiệu quả tổ chức trò chơi đóng vai theo chủ cho trẻ. 3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu: 3.1: Khách thể nghiên cứu: Quá trình tổ chức trò chơi đóng vai trò theo chủ đề cho trẻ 4-5 tuổi. 3.2: Đối tượng nghiên cứu: Biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 4-5 tuổi thông qua trò chơi đóng vai theo chủ đề. 4.Giả thuyết khoa học: Ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo nhỡ 4-5 tuổi trường Mẫu giáo SOS,Đồng Hới còn phát triển chậm. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên trong đó trò chơi đống vai theo chủ đề có vai trò quan trọng. Bằng sự đổi mới nội dung và phương pháp tổ chức trò chơi trò chơi đóng vai theo chủ đề, sẽ làm cho ngôn ngữ của các em nhanh chóng phát triển. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu: 5.1: Nghiên cứu cơ sở về việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ, thông qua trò chơi đóng vai trò theo chủ đề. * Tìm hiểu các khái niệm: Khái niệm trẻ em. Khái niệm ngôn ngữ. Khái niệm trò chơi đóng vai theo chủ đề. Trẻ mẫu giáo nhỡ. 5.2: Khảo sát, phân tích thực trạng về việc tổ chức trò chơi đóng vai trò theo chủ đề để nâng cao hiệu quả phát triển ngôn ngữ cho trẻ. 5.3: Nghiên cứu để lựa chọn, sử dụng tổ chức các trò chơi cho trẻ. 6. Giới hạn nghiên cứu của đề tài: 6.1: Giới hạn nghiên cứu của đề tài về khách thể: Đề tài này được thực hiện trên 20 trẻ Mẫu Giáo 4- 5 tuổi và 10 giáo viên ở trường SOS, Đồng Hới, Quảng Bình. 6.2: Giới hạn nghiên cứu về nội dung: Nghiên cứu khả năng phát triển ngôn ngữ của trẻ Mẫu 4-5 tuổi và hứng thú của trẻ trong hoạt động tổ chức trò chơi đóng vai theo chủ đề. 7. CƠ SỞ PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 7.1: Cơ sở phương pháp luận: Sử dụng phương pháp nghiên cứu so sánh và phân tích 7.2: Phương pháp nghiên cứu: 7.2.1: Phương pháp quan sát: Dự tiết dạy của cô giáo, qua đó nắm được vốn từ và khả năng diễn đạt của trẻ. Quan sát trong hành động và ghi chép trung thành ngôn ngữ của trẻ. Ví dụ: Cô cho trẻ quan sát ngôi nhà Giáo viên mang ngôi nhà vào lớp, ngôi nhà được bọc kín. Cô tập trung hết sức chú ý của trẻ rồi mới lấy ngôi nhà cho trẻ quan sát. Khi đó trẻ gọi chính xác tên của đồ chơi là ngôi nhà: ngôi nhà màu xanh, cửa sổ màu vàng, nhà có hai tầng, tác dụng ngôi nhà để ở. 7.2.2: Phương pháp trò chuyện: Trao đổi, tọa đàm với cô giáo về đề tài nghiên cứu. Trò chuyện với trẻ, hỏi trẻ một số câu hỏi nhằm làm rõ hơi vốn từ và khả năng diễn đạt của trẻ, chẳng hạn như: về cảm xúc , hứng thú của trẻ khi trẻ đóng vai. 7.3: Phương pháp thực nghiệm tác động Đề tài đã sử dụng phương pháp thực nghiệm tác động như sau: Chia lớp nghiên cứu thành hai nhóm có số lượng trẻ và chất lượng ngôn ngữ tương đương. Nhóm thực nghiệm được tác động bằng nội dung và phương pháp tổ chức trò chơi đóng vai theo chủ đề và phương pháp tổ chức đặc biệt. Nhóm đối chứng được dạy bằng nội dung và phương pháp tổ chức trò chơi đóng vai theo chủ đề như trường Mẫu giáo SOS vẫn dạy. Sau một thời gian thực nghiệm tác động xem sự phát triển ngôn ngữ ở nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng có sự khác nhau không? 7.4: Phương pháp trắc nghiệm Sử dụng phương pháp trắc nghiệm để đo vốn từ và khả năng sử dụng cấu trúc ngữ pháp của trẻ. 7.5: Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động Người nghiên cứu ghi lại, hệ thống lại những từ ngữ, những kết cấu ngữ pháp mà trẻ nói ra trong quá trình tham gia trò chơi đóng vai theo chủ đề. Trên cơ sở đó đưa ra nhận xét về sự phát triển vốn từ cũng như cách phát âm hay khả năng sử dụng cấu trúc ngữ pháp của trẻ. 8. Đóng góp mới của đề tài: - Đề tài góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận và đi sâu tìm hiểu về vấn đề giáo dục văn hóa ứng xử của trẻ 4 - 5 tuổi thông qua trò chơi đóng vai theo chủ đề. - Xây dựng được một số biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục văn hóa ứng xử cho trẻ. 9. Thời gian, địa điểm - Thời gian: Từ tháng 3 năm 2016 đến tháng 5 năm 2017. - Địa điểm: Tại trường Mẫu Giáo SOS - Đồng Hới - Quảng Bình. 10. Kết cấu của đề tài: A. Phần mở đầu B. Nội dung chính Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài Chương 2: Khảo sát thực trạng Chương 3: Thực nghiệm tác động C. Kết luận và kiến nghị B. NỘI DUNG CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VIỆC NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC VĂN HÓA ỨNG XỬ CHO TRẺ MẪU GIÁO NHỠ 3-4 TUỔI THÔNG TRÒ CHƠI ĐÓNG VAI THEO CHỦ ĐỀ 1.1: Lịch sử nghiên cứu đề tài: Việc sử dụng trò chơi trong dạy học không phải là vấn đề mới được đặt ra mà ngay từ đầu thế kỷ XX, nhà tâm lý học Thụy Sỹ J. Paget đã rất quan tâm đến phương pháp này “ thông qua hoạt động vui chơi để tiến hành hoạt động học tập “ . Năm 1974, trong tạp chí văn học ở trường Mat- xcơ- va số 2 (trang 53) B.C. Giê -nhi-xkai- a đã cho rằng “ chúng ta không những phải tạo cho trẻ được nuôi dưỡng bằng trò chơi “. Ở Việt Nam cũng có nhiều tác giả quan tâm đến việc sử dụng phương pháp này trong từng môn học cụ thể. Đó là PGS. TS Nguyễn Ánh Tuyết với cuốn sách “ Giáo dục mầm non những vấn đề lý luận và thực tiễn “ , hay “ Tâm lý học trẻ lứa tuổi mầm non “. v.v Trong những cuốn sách này tác giả đã đề cập đến vai trò của trò chơi đóng vai theo chủ đề đối với sự phát triển ngôn ngữ của trẻ em mọt cách khái quát. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu cụ thể cách thức xây dựng nội dung chương trình, và phương pháp tổ chức trò chơi đóng vai theo chủ đề, để qua đó phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo nói chung và trẻ mẫu giáo nhỡ nói riêng. 1.2: Ngôn ngữ và sự hình thành phát triển ngôn ngữ 1.2.1: Khái niện ngôn ngữ Ngôn ngữ là một hệ thống thông tin đặc biệt, là phương tiện giao tiếp cơ bản và quan trọng nhất của các thành viên trong cộng đồng người. Ngôn ngữ đồng thời cũng là phương tiện phát triển tư duy, truyền đạt truyền thống văn hóa – lịch sử từ thế hệ này sang thế hệ khác. Tùy theo hoàn cảnh lịnh sử mà sự hình thành dân tộc và ngôn ngữ dân tộc mỗi nơi, mỗi thời kỳ một khác, theo những con đường khác nhau. Mác và Awngghen đã viết: “ Trong bất cứ ngôn ngữ phát triển nào hiện nay, cái nguyên nhân khiến cho một ngôn ngữ phát sinh một cách tự phát, được ... u giáo bé (3-4 tuổi ): Trẻ tái tạo những hành động của người lớn. + Ở trẻ mẫu giáo nhỡ ( 4-5 tuổi): Có thêm nội dung mới đó là mối quan hệ giữa người với người trong quá trình hoạt động chung. + Ở trẻ mẫu giáo lớn ( 5-6 tuổi) : Ngoài hai nội dung trên trẻ tái tạo mối quan hệ bên trong cả về tình cảm, đạo đức,v.v Vai chơi và hành động chơi Vai chơi là một yếu tố quan trọng tạo nên trò chơi. Hành động chơi đó là những hành động mà trẻ em nhận thức được những hành động của người lớn. Các quan hệ của trẻ trong trò chơi Trong trò chơi có hai mối quan hệ: + Quan hệ thực: Quan hệ giữa trẻ em và người khác trong quan hệ chơi. + Quan hệ chơi: Đó là mối quan hệ giữa các vai chơi, sức sống của trò chơi phụ thuộc vào sự thiết lập và vận hành mối quan hệ giữa các vai chơi. Đồ chơi và hoàn cảnh chơi Đồ chơi là vật thay thế cho vật thật. Có hai loại đồ chơi đó là: + Đồ chơi người lớn làm cho trẻ. + Đồ chơi do trẻ tự làm ra: Trẻ lấy vật này để thay thế cho vật khác ( lá- tiền). Trong bốn yêu tố trên thì chủ đề và nội dung chơi quyết định tất cả các yếu tố sau. Người lớn cần tôn trọng tính tự nguyện, tính tự chủ của trẻ trong khi chơi. Giáo viên mầm non nên căn cứ vào nội dung giáo dục để thiết kế thành các trò chơi cho trẻ, vừa để thỏa mãn nhu cầu của trẻ, vừa đảm bảo mục tiêu giáo dục, giúp trẻ lựa chọn được chủ đề, nội dung chơi đích thực, giúp trẻ phân vai và thiết lập các mối quan hệ trong trò chơi. Cần tạo ra những tình huống trong trò chơi để trẻ lựa chọn thực hiện kiểu ứng xử phù hợp. Cần giúp trẻ tao ra những mối quan hệ tinh thần tôn trọng bình đẳng của trẻ trong trò chơi. 1.5.4: Vai trò của trò chơi đóng vai theo chủ đề đối với trẻ mẫu giáo Những phẩm chất tâm lý và những đặc điểm nhân cách của trẻ mẫu giáo được phát triển mạnh mẽ nhất là trong hoạt động vui chơi. Hoạt động vui chơi ảnh hưởng mạnh tới sự hình thành tính chủ định của quá trình tâm lý. Nếu đứa trẻ không chú ý và nhớ những điều kiện của trò chơi thì nó sẽ hành động tự do dẫn đến nguy cơ bị các bạn cùng chơi không chơi cùng. Để trò chơi được thành công buộc đứa trẻ phải tập trung chú ý và ghi nhớ một cách chủ định. Sự phát triển tư duy Trong hoạt động vui chơi, đặc biệt là trò chơi đóng vai theo chủ đề, trẻ phải nhập vai và thực hiện các vai chơi vói vật thay thế trong khi hành động với vật thay thế trẻ suy nghĩ về đồ vật thực. Trẻ phải dựa vào các hình ảnh đã biết để thực hiện vai chơi của mình. Ví dụ: Cô giáo thường có các hoạt động như: dạy trẻ đọc thơ, dạy hát, múa,v.v Từ đó hành động của trẻ bắt đầu rút gọn và mang tính khái quát và chuyển dần dần vào trong đầu. Trẻ bắt chước những việc làm của cô giáo. Sự phát triển tưởng tượng Tưởng tượng là một quá trình nhận thức, xây dựng hình ảnh mới dựng vào những hình ảnh đã biết. Trong quá trình chơi trò chơi đóng vai theo chủ đề trẻ phải thực hiện các hành động của các vai chơi mà phụ thuộc vào vật thay thế. Từ đó trẻ buộc phải tưởng tượng ra hành động chơi. Như vậy hoạt động vui chơi quyết định sự hình thành và phát triển tưởng tượng ở lứa tuổi này. Sự phát triển ngôn ngữ Tình huống chơi đòi hỏi mỗi đứa trẻ tham gia vào trò chơi phải có một trình độ giao tiếp bằng ngôn ngữ nhất định. Nếu trẻ không diễn đạt được mạch lạc nguyện vọng và ý kiến của mình đối với trò chơi, nếu không hiểu được những lời chỉ dẫn hay bàn bạc của các bạn cùng chơi thì nó không thể chơi, trẻ phải phát triển ngôn ngữ một cách rõ rang mạch lạc. Sự phát triển tình cảm Tình cảm được nảy sinh từ mối quan hệ giữa người với người, trong trò chơi đóng vai theo chủ đề, trẻ phải tham gia vào hai mối quan hệ : quan hệ thực và quan hệ chơi. Trẻ nhập vai vào mối quan hệ đó, từ đó tình cảm này được sinh thành và phát triển. Sự phát triển ý chí Tính mục đích, tính tự chủ, tính kiên trì đây là các phẩm chất của ý chí được hình thành và phát triển mạnh trong khi chơi. Vậy đây là hoạt động chủ đạo quyết định sự phát triển tâm lý của trẻ mẫu giáo. 1.5.5: Khả năng nghe hiểu lời nói Tính giác là cơ quan phân tích giúp cho việc hấp thu âm thanh của ngôn ngữ. Cùng với sự phát triển của trẻ, dần dần sẽ phát triển sự chú ý lắng nghe, tri giác âm thanh của ngôn ngữ. Khả năng nghe hình thành sớm ở hai, ba tuần đầu, trẻ đã iết phản ứng ngôn ngữ. Ở mẫu giáo nhỡ, sự tri giác bằng thính giác đang phát triển mạnh mẽ khi trẻ được tiếp xúc với môi trường xung quanh, xem vô tuyến, nghe đài truyền thanh, nghe đĩa, v.v Giáo viên nên tổ chức “ những phút im lặng “, “ biến những phút này thành các bài tập”, “ ai nghe rõ hơn”, “đoán câu nói”,v.v.. Giáo viên dạy trẻ (4-5 tuổi) hiểu được người khác nói và phân biệt các giọng nói, giọng điệu khác nhau. Trẻ nghe và hiểu được những từ, những câu, nghe hiểu các nội dung các lời nói. Trẻ hiểu những câu chuyện, bài hát, bài thơ phù hợp với lứa tuổi, biết thể hiện thái độ thích hợp khi nghe. 1.5.6: Phương pháp tổ chức trò chơi đóng vai theo chủ đề Trò chơi đóng vai theo chủ đề thực chất là sự mô phỏng của trẻ em về đời sống xã hội của người lớn bằng việc ướm thử mình vào những người nào đó trong xã hội rồi bắt chước hành động của họ để thực hiện chức năng xã hội như một sự tập dượt làm người lớn. Do đó, việc tổ chức cho trẻ chơi trò chơi đóng vai theo chủ đề là tạo điều kiện để trẻ được thỏa mãn nguyện vọng là muốn làm người lớn, từ đó cần định ra các biện pháp có tác động tích cực đối với sự phát triển của trẻ khi chúng chơi trò chơi đóng vai theo chủ đề. Khi tổ chức cho trẻ chơi trò chơi đóng vai theo chủ đề giáo viên cần lưu ý mấy điểm sau: Giáo viên cần hướng dẫn cho trẻ biết nhập vai Những hành động mà trẻ thường bắt chước người lớn như : bế em bé, cho em ăn, ru cho em ngủ..v.v Nhưng có trẻ khi làm hành động mà không biết mình đang làm gì. Trong trò chơi đóng vai theo chủ đề thì đóng vai là khâu then chốt của trò chơi, do đó trong việc tổ chức trò chơi đóng vai theo chủ đề cho trẻ, giáo viên cần câu hỏi cho trẻ biết mình đóng là ai và đang làm gì bằng những câu hỏi như: Bác sĩ thường làm gì? Bác đang tiêm cho ai?.v.v Qua đó trẻ tiếp thu được cách ứng xử giữa người với người trong cuộc sống. Cần hướng hành động của người lớn, nhưng những hành động đó còn ngây ngô, rời rạc. Có cháu đang ru “em bé” ngủ bằng gối thì liền ngay sau đó lại chơi phi ngựa bằng chiếc gối đó. Điều đó chứng tỏ trẻ chưa biết hướng hành động của mình vào một chủ đề chơi nhất định. Như vậy trò chơi sẽ khó duy tri. Bởi vậy, giáo viên cần khéo léo dẫn dắt cho trẻ biết thêm những công việc mà người lớn thường làm để trẻ có thể chơi có định hướng mà không bị lạc đề. Ví dụ: Đối với chủ đề “ Bệnh viện”, người lớn cần nói cho trẻ biết ở bệnh viện có những ai (bác sĩ, cô y tá, người bệnh.v.v) và công việc của từng người (bác sĩ khám bệnh, tiêm thuốc, dặn dò bệnh nhân những điều cần thiết với thái độ ân cần.v.v) chơi như vậy hành động của trẻ sẽ được xác định rõ ràng hơn. Đây là bước tiến đáng kể trong sự phát triển đời sống tâm lý trẻ, cần cho hoạt động học tập và lao động sau này. Biết phối hợp hành động với bạn chơi trong khi chơi Trẻ chơi tự do sẽ dẫn đến không có những hành động liên kết trong khi chơi. Trẻ chưa biết hợp tác với nhau hay nói đúng hơn là chưa biết chơi với nhau, phối hợp với nhau để trò chơi thêm hấp dẫn. Người lớn không bao giờ áp đặt hay dùng mệnh lệnh trong khi hướng dẫn trẻ chơi. Vui chơi là một hoạt động độc lập của trẻ nên khi tổ chức trò chơi đóng vai theo chủ đề cần phát huy cao độ tính tự lực, tự chủ, khuyến khích những sáng kiến của trẻ trong việc đóng vai, tìm vật thay thế, kích thích trí tưởng tượng của trẻ trong việc tạo ra nhiều hoàn cảnh chơi mới mẻ. Giáo viên nên lôi cuốn trẻ vào những trò chơi hấp dẫn, vừa sức và tốt nhất nên cùng chơi với trẻ để làm mẫu các hành động chơi, trực tiếp tạo ra các tình huống chơi để giúp trẻ phối hợp với nhau giữa các vai và kịp thời động viên, khuyến khích những trẻ biết chơi đúng, chơi hay và cũng kịp thời uốn nắn những hành vi sai trái của trẻ, nhất là khi xảy ra xung đột giữa các vai chơi. Khi hướng dẫn trẻ chơi, người cần khéo léo đưa những quy tắc sống, những chuẩn mực đạo đức của xã hội người lớn vào trò chơi của trẻ. Lúc đầu chỉ là sự thỏa thuận, là quy ước với nhau, sau đó mới thành quy tắc và trở thành luật. Chẳng hạn, đối với trò chơi “ Đi tàu hỏa “, để trò chơi này được tiến hành trẻ cần thỏa thuận với nhau, hành khách phải mua vé, ngồi đúng ghế; người soát vé thì đeo băng đỏ; người lái tàu thì phải ngồi đúng toa đầu máy để lái tàu; khi tàu chạy không được nhảy ra khỏi tàu.v.v Trong khi hướng dẫn trẻ hoạt động, giáo viên cũng phải uốn nắn lỗi trong câu nói của trẻ. Giáo viên có thể đặt ra các câu hỏi để trẻ trả lời bằng những câu ghép. Câu hỏi có thể đi từ dễ đến khó. Ví dụ: Tại sao hôn nay Lan không đi học? Tại sao hôm nay mọi người trong thành phố đềi treo cờ? Trả lời: Lan không đi học vì Lan bị ốm. Vì bị ốm nên Lan không đi học. Lan vì bị ốm nên không đi học. Đầu tiên trẻ trả lời vế phụ chỉ nguyên nhân (vì Lan ốm ). Sau đó bắt trẻ nhắc lại câu hoàn chỉnh gồm vế phụ. Giáo viên chú ý giúp trẻ đặt nhiều kiểu câu bằng cách thay đổi vị trí các vế của câu ghép. Cô luôn luôn chú ý đến lời nói của trẻ, uốn nắn lỗi ngữ pháp cho trẻ, đưa vào lời nói của trẻ những cấu trúc ngữ pháp phù hợp với tình huống nói năng. CHƯƠNG II: KHẢO SÁT THỰC TRẠNG 2.1: Thực trạng việc xây dựng nội dung và tổ chức trò chơi đóng vai theo chủ đề ở các trường mầm non hiện nay 2.1.1: thực trạng lập kế hoạch tổ chức hướng dẫn trẻ chơi trò chơi đóng vai theo chủ đề 2.1.2: Thực trạng về tạo môi trường cho trẻ 2.1.3: Mức độ tích lũy kinh nghiệm và làm sống lại kinh nghiệm bằng các biện pháp khác nhau cho trẻ trong trò chơi 2.1.4: Quá trình và tổ chức hướng dẫn trò chơi 2.2: Thực trạng sự phát triển ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo nhỡ 2.2.1: Khách thể nghiên cứu 2.2.2: Phương pháp điều tra 2.2.3: Kết quả điều tra sự phát âm của trẻ mẫu giáo nhỡ thu được qua bảng 2 và bảng 3 CHƯƠNG III: THỰC NGHIỆM TÁC ĐỘNG 3.1: Cách thức tiến hành 3.2: Thời gian tiến hành thực nghiệm tác động 3.3: Giáo án thực nghiệm PHẦN 3: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 1. Kết luận 2. Kiến nghị
File đính kèm:
- skkn_bien_phap_phat_trien_ngon_ngu_cho_tre_4_5_tuoi_cua_truo.docx