Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao chất lượng dạy và học luyện từ và câu ở lớp 2

2. Nhiện vụ của phân môn luyện từ và câu.

 Dạy phân môn luyện từ và câu ở trường tiểu học nói chung và ở lớp 2 nói riêng có nhiệm vụ cung cấp cho học sinh một số khái niệm từ và câu cơ bản, cung cấp cho các em một số kiến thức ban đầu cơ bản và cần thiết về từ, câu, các kiểu từ, các kiểu câu nhưng phải vừa sức đối với lứa tuổi các em.

 Dạy luyện từ và câu có nhiệm vụ trang bị cho học sinh một số hệ thống khái niệm, sự hiểu biết về cấu trúc ngôn ngữ và những quy luật của nó. Cụ thể là luyện từ và câu ở tiểu học giúp cho học sinh hiểu về cấu tạo của từ, khái niệm về từ và câu.

 Những kĩ năng mà học sinh cần đạt trong giờ luyện từ và câu: Biết dùng từ, câu trong nói và viết, nói đúng, dễ hiểu và sử dụng các câu văn hay, nhận ra những từ, câu không có văn hoá để loại ra khỏi vốn từ, ngoài ra học sinh còn nắm được văn hoá chuẩn của lời nói.

 Hơn nữa, phân môn luyện từ và câu còn rèn cho học sinh khả năng tư duy logic cao và khả năng thẩm mĩ.

 Nhiệm vụ chủ yếu của việc dạy từ và câu giúp học sinh mở rộng, phát triển vốn từ (phong phú hoá vốn từ), nắm được nghĩa của từ (chính xác hoá vốn từ), quản lí phân loại vốn từ (hệ thống hoá vốn từ và luyện tập sử dụng từ), tích cực hoá vốn từ.

 Nhiệm vụ rèn luyện về câu của phân môn luyện từ, làm quen với các kiểu câu như : Ai là gì? Ai làm gì? Ai thế nào? một số thành phần trong câu, tập dùng một số dấu câu (dấu chấm, dấu phẩy, dấu chấm hỏi, dấu chấm than, trọng tâm là dấu chấm và dấu phẩy).

3. Tác dụng của phân môn luyện từ và câu

 Xuất phát từ nhiệm vụ của phân môn luyện từ và câu đã được trình bày ở trên, giúp học sinh phân biệt câu và từ, từ và tiếng, các kiểu câu đơn trong đó biết dùng từ đặt câu, biết mở rộng vốn từ và giải nghĩa từ, biết dùng dấu câu phù hợp. Nó góp phần bổ xung kiến thức, rèn luyện tư duy và hình thành nhân cách cho học sinh (thông qua các kĩ năng các em dùng từ để đặt câu)

 Như vậy phân môn luyện từ và câu có tác dụng to lớn trong quá trình phát triển tư duy ngôn ngữ cho học sinh.

 Qua phân môn luyện từ và câu các em nắm được từ và mở rộng vốn từ, giải nghĩa của từ và vế câu. Các em nắm được các kiểu câu, các dấu câu (dấu chấm, dấu phẩy, dấu chấm hỏi, dấu chấm than), biết cách sử dụng từ và câu phù hợp với ngữ cảnh và lời nói.

 Ngoài ra, nội dung chương trình của phân môn luyện từ và câu ở tiểu học được xây dựng phù hợp với yêu cầu phát triển lời nói của học sinh, giúp các em mở rộng thêm kiến thức trong quá trình học tập, lao động và giao tiếp ngày một tốt hơn, tiến bộ hơn, đạt kết quả cao hơn.

 

doc 18 trang camtu 07/10/2022 6420
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao chất lượng dạy và học luyện từ và câu ở lớp 2", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao chất lượng dạy và học luyện từ và câu ở lớp 2

Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao chất lượng dạy và học luyện từ và câu ở lớp 2
Phần I : Đặt vấn đề
Lý do chọn đề tài
	Môn Tiếng Việt là môn học góp phần quan trọng trong việc giúp các em học các môn học khác. Dạy Tiếng Việt ở tiểu học là dạy phát triển ngôn ngữ cho người bản ngữ vì bản thân các em đã biết tiếng mẹ đẻ. Chúng ta cần dạy cho các em biết cách sử dụng ngôn ngữ sao cho phù hợp trong môn Tiếng Việt ở tiểu học bao gồm nhiều phân môn như : tập đọc, chính tả, kể chuyện, tập làm văn, tập viết và luyện từ và câu. Mỗi phân môn đều có những vai trò quan trọng riêng. Nhưng phân môn luyện từ và câu là một phân môn mà tôi yêu thích nhất. Vì đây là phân môn đóng vai trò quan trọng đối với việc phát triển ngôn ngữ của học sinh nói chung và đối với học sinh lớp 2 nói riêng.
	Trong thực tế, phân môn luyện từ và câu có vị trí rất quan trọng, là chìa khoá mở ra kho tàng văn hoá trên mọi lĩnh vực đời sống, xã hội của con người. Hơn nữa, phân môn luyện từ và câu giúp học sinh lĩnh hội Tiếng Việt, văn hoá, là công cụ giao tiếp tư duy và học tập. Đối với học sinh khi sử dụng Tiếng Việt thì việc luyện từ và câu có một vai trò quan trọng nó giúp học sinh có đủ điều kiện để sử dụng Tiếng Việt đạt hiệu quả cao trong học tập các môn văn hoá, trong việc viết văn bản. Xuất phát từ mục đích yêu cầu của môn Tiếng Việt trong trường tiểu học nhằm tạo cho học sinh năng lực sử dụng Tiếng Việt, văn hoá và hiện đại để suy nghĩ, giao tiếp và học tập. Thông qua việc học Tiếng Việt rèn cho học sinh năng lực tư duy, phương pháp suy nghĩ, giáo dục cho các em tư tưởng, tình cảm trong sáng. Có như vậy mới thực hiện được nhiệm vụ đào tạo học sinh thành những con người phát triển toàn diện. Xuất phát từ nhữg yêu cầu rèn luyện kĩ năng luyện từ, đặt câu cho học sinh tiểu học, rèn cho các em một số phẩm chất như : óc thẩm mĩ, tính kỷ luật, đồng thời bồi dưỡng cho các em lòng yêu quý Tiếng Việt biểu thị tình cảm tốt đẹp trong việc học và hiểu phân môn luyện từ và câu.
	Trong quá trình học tập và giảng dạy tôi đã nắm được những cơ sở lí luận của công tác giáo dục học sinh đặc biệt là chất lượng dạy và học phân môn luyện từ và câu của lớp 2. Tôi đã tìm hiểu những phần nào về nội dung và biện pháp thực tế trong quá trình giảng dạy. Đặc biệt là những biện pháp dạy phân môn luyện từ và câu cho học sinh lớp 2 nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy.
	Mặt khác, đối với giáo viên chất lượng giảng dạy phân môn luyện từ và câu là nhiệm vụ hàng đầu. Có dạy tốt thì kết quả học tập của học sinh mới được nâng cao. Giáo viên có dạy tốt hay không được đánh giá ở chính thành tích học tập của các em. Kết quả học tập của các em là thước đo quá trình phấn đấu rèn luyện của chính bản thân mỗi giáo viên. Cho nên khi giảng dạy, mỗi giáo viên tiểu học phải truyền đạt hết sức mình cho các em học tập.
2. Cơ sở thực tiễn
	Trong quá trình dạy học với lòng say mê nghiên cứu tìm tòi học tập cộng với sự yêu thích Tiếng Việt, với những từ và câu  phong phú mang nhiều ý nghĩa đã hướng tôi đến với đề tài : “ Nâng cao chất lượng dạy và học luyện từ và câu lớp 2 ”. Hơn nưã trong quá trình dạy học tôi thấy phân môn luyện từ và câu chiếm một lượng thời gian tương đối nhiều của môn Tiếng Việt. Nhưng thực tế việc dạy và học phân môn này vẫn chưa đạt được kết quả cao.
	Không chỉ việc dạy mà việc học phân môn luyện từ và câu hiện nay nhìn chung kết quả đạt chưa cao vì nhiều lí do khách quan mang lại. Thực tế trẻ em thành phố và thị xã có khả năng học và làm bài tập phân môn luyện từ và câu tốt hơn trẻ em vùng nông thôn và trẻ em vùng sâu vùng xa. Điều đó dẽ hiểu vì tầm hiểu biết, vốn sống, vốn kinh nghiệm thực tế môi trường giao tiếp và điều kiện thời gian của các em cũng khác nhau làm cho khả năng tư duy và độ sáng tạo cũng khác biệt. Nếu trẻ có điều kiện sống tốt thì khả năng phát triển về mọi mặt sẽ tốt hơn.
	Mặt khác trong quá trình học phân môn luyện từ và câu học sinh còn rất khó khăn trong việc phân biệt câu, chữ, từ và tiếng giữa các từ trong câu và nhận biết câu trong quá trình học và làm bài tập luyện từ và câu như việc lựa chọn và sử dụng các từ trong câu văn hay dễ hiểu dùng các từ để đặt câu theo mục đích nói.
	Trong giao tiếp nhiều khi các em dùng từ đặt câu chưa chính xác, đôi khi còn lủng củng vì các em còn nhỏ tuổi, tư duy phát triển chưa cao nên các em thường nói và làm như suy nghĩ của mình mà chưa có sự lựa chọn từ, câu cho thích hợp, chưa có sự chau chuốt trong cách dùng từ, câu trong các câu nói. Chính vì vậy cần có sự hướng dẫn của giáo viên, sự định hướng đúng đắn để các em phát triển theo hướng tích cực. Bên cạnh đó, không phải giáo viên nào cũng có chuyên môn vững về luyện từ và câu, không phải giáo viên nào cũng giỏi trong giao tiếp cũng như trong việc sử dụng từ và câu.
	Với những cơ sở lí luận trên và căn cứ vào thực tiễn như đã nêu trên tôi đi sâu vào tìm hiểu khả năng phân biệt từ và câu, khả năng nhận biết từ và cách dùng từ để đặt câu của học sinh tiểu học, cụ thể là học sinh lớp 2 để thấy được những ưu điểm và khuyết điểm của học sinh trong quá học tập nói chung và học luyện từ và câu nói riêng. Từ đó nêu ra các biện pháp đề xuất cụ thể nhằm khắc phục được những khó khăn và vướng mắc của giáo viên và học sinh khi giảng dạy và học phân môn luyện từ và câu, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học phân môn này ở tiểu học nói chung và lớp 2 nói riêng.
3. Mục đích nghiên cứu
	Nghiên cứu nội dung chương trình sách giáo khoa phân môn luyện từ và câu lớp 2, dự giờ, học hỏi đồng nghiệp, đồng thời điều tra khảo sát việc dạy và học phân môn luyện từ và câu của giáo viên và học sinh lớp 2. Từ đó thấy được những khó khăn vướng mắc của giáo viên và học sinh thông qua các giờ dạy và các bài tập luyện từ và câu để tìm ra một số biện pháp cụ thể nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn Tiếng Việt nói chung và phân môn luyện từ và câu nói riêng ở tiểu học.
4. Đối tượng phạm vi và kế hoạch nghiên cứu
Đối tượng học sinh lớp 2A của trường tiểu học Dương Liễu A, huyện Hoài Đức – Tỉnh Hà Tây.
Phạm vi nghiên cứu
	Ngay từ đầu năm học, tôi đã chú ý tìm hiểu về tình hình của lớp và thấy rằng trong môn Tiếng Việt đặc biệt ở phân môn luyện từ và câu chất lượng học của học sinh còn chưa cao. Chính vì thế mà tôi đã chọn đề tài : “ Nâng cao chất lượng dạy và học luyện từ và câu lớp 2 ”. 
Trên thực tế học sinh còn có mặt hạn chế và thiếu sót nhất định so với yêu cầu chung đưa ra.
	Hiểu được tầm quan trọng của việc dùng từ, đặt câu và so sánh với thực trạng tình hình học tập của lớp tôi, tôi rất băn khoăn và lo lắng, tìm ra một biện pháp giải quyết kịp thời trước mắt và rèn luyện lâu dài để hướng dẫn các em những biện pháp dùng từ đặt câu có hiệu quả.
 Kế hoạch nghiên cứu
* Khảo sát hứng thú học tập và giảng dạy phân môn luyện từ và câu của giáo viên và học sinh thông qua các bài học và trao đổi giữa giáo viên và học sinh. 
- Tìm đọc các tài liệu có liên quan tới việc phân biệt, từ, câu, xác định các bộ phận dùng từ đặt câu của học sinh tiểu học xung quanh phân môn luyện từ và câu.
- Điều tra tình hình gia đình và nhà trường có liên quan tới chất lượng và học tập của phân môn luyện từ và câu của giáo viên và học sinh.
* Khảo sát thực trạng việc dạy và học phân môn luyện từ và câu của giáo viên và học sinh để thu thập số liệu, phân tích đối chiếu và so sánh
- Tìm ra những sai sót và dự đoán những nguyên nhân dẫn đến sai lầm đó.
- Đề ra biện pháp khắc phục những sai lầm một cách chính xác và khoa học.
- Đề xuất ý kiến với những cơ quan chức năng để có những biện pháp cải thiện việc dạy và học phân môn luyện từ và câu. Phát huy khả năng tư duy và tưởng tượng của học sinh tiểu học thông qua các bài tập của môn học này. Từ đó, đề xuất những biện pháp cụ thể, thiết thực để nâng cao chất lượng dạy và học phân môn luyện từ và câu, phát huy khả năng tư duy của học sinh.
Phần II : Nội dung
I. Cơ sở lí luận của việc dạy và học phân môn luyện từ và câu
1.Vị trí, vai trò của phân môn luyện từ và câu
	ở lớp 2 chương trình mới, môn từ ngữ - ngữ pháp được kết hợp thành một môn học mới đó là phân môn luyện từ và câu. Nó là một môn học giữ vị trí chủ đạo trong chương trình Tiếng Việt mới của lớp 2. Ngay từ đầu của hoạt động học tập ở trường, học sinh đã được làm quen với lí thuyết của từ và câu. Sau đó, kiến thức được mở rộng thêm và nâng cao dần để phục vụ cho nhu cầu ngày một tăng trong cuộc sống của các em cũng như trong lao động, học tập và giao tiếp.
	Vai trò quan trọng đặc biệt trong hệ thống ngôn ngữ, là đơn vị trung tâm của ngôn ngữ. Chính vì vậy, dạy luyện từ và câu có vị trí rất quan trọng, không có một vốn từ đầy đủ thì không thể nắm được ngôn ngữ như một phương pháp giao tiếp. Việc dạy từ và câu ở giai đoạn đầu giúp học sinh nắm được tiếng mẹ đẻ, tạo điều kiện học tập phát triển toàn diện. Khả năg giáo dục nhiều mặt của luyện từ và câu là rất to lớn. Nó có nhiều khả năng để phát triển ngôn ngữ, tư duy lôgic và các năng lực trí tuệ như trừu tượng hoá, khái quát hoá, phân tích tổng hợpvà các phẩm chất đạo đức như tính cẩn thận, cần cù. Ngoài ra phân môn luyện từ và câu còn có vai trò hướng dẫn cho học sinh kĩ năng nói, đọc viết., viết.
	Luyện từ và câu là môn học nền tảng để học sinh học các môn khác trong tất cả các cấp học sau, cũng như trong lao động và giao tiếp trong cuộc sống, bởi nó giúp học sinh có năng lực nói đúng. Từ đó, sử dụng Tiếng Việt văn hoá một cách thành thạo làm công cụ tư duy để học tập giao tiếp và lao động.
2. Nhiện vụ của phân môn luyện từ và câu.
	Dạy phân môn luyện từ và câu ở trường tiểu học nói chung và ở lớp 2 nói riêng có nhiệm vụ cung cấp cho học sinh một số khái niệm từ và câu cơ bản, cung cấp cho các em một số kiến thức ban đầu cơ bản và cần thiết về từ, câu, các kiểu từ, các kiểu câu nhưng phải vừa sức đối với lứa tuổi các em.
	Dạy luyện từ và câu có nhiệm vụ trang bị cho học sinh một số hệ thống khái niệm, sự hiểu biết về cấu trúc ngôn ngữ và những quy luật của nó. Cụ thể là luyện từ và câu ở tiểu học giúp cho học sinh hiểu về cấu tạo của từ, khái niệm về từ và câu.
	Những kĩ năng mà học sinh cần đạt trong giờ luyện từ và câu: Biết dùng từ, câu trong nói và viết, nói đúng, dễ hiểu và sử dụng các câu văn hay, ... o? (Tập đọc, chính tả, luyện từ và câu, tập viết, kể chuyện, tập làm văn)
- Trong môn nghệ thuật em thấy có những phân môn nào? (Thủ công, âm nhạc, mĩ thuật)
- Sau đó giáo viên dùng những tấm bìa khác màu để phân biệt các môn học.
Giải các bài tập hệ thống hoá vốn từ, học sinh sẽ xây dựng được những nhóm từ khác nhau. Để hướng dẫn học sinh làm những bài tập này giáo viên cần có vốn từ cần thiết và phân biệt được các loại từ.
Ví dụ: Chọn từ ngữ thích hợp rồi điền vào chỗ trống để tạo thành một câu hoàn chỉnh:
a/ Cháu ông bà
b/ Con  cha mẹ
c/ Em  anh chị
- Giáo viên phải xác định cho học sinh ở bài tập này phải điền những từ ngữ nói về tình cảm mà các em đã được học.
- Sau đó học sinh có thể điền nhiều từ có nghĩa tương tự nhau như câu a.
Cháu ông bà (học sinh có thể điền : kính yêu, kính trọng)
Dạy bài tích cực hoá vốn từ
Dạng bài tập này không chỉ giúp học sinh nắm được nghĩa mà còn làm rõ khả năng kết hợp từ. Những bài tập được sử dụng ở lớp 2 là bài tập điền từ, bài tập đặt câu, bài tập tạo từ
Ví dụ: Bài “Từ ngữ về tình cảm” (tuần 12)
Dùng mũi tên ( à) nối các tiếng sau thành những từ có hai tiếng rồi ghi các từ tìm được vào dòng dưới.
 Yêu
thương
 quý
 kính
 mến
- Giáo viên hướng dẫn học sinh bằng cách : Hướng dẫn các em tạo các từ theo từng tiếng dưới dạng sơ đồ cây. Như tiếng “yêu” ta có các từ : yêu thương, yêu quý, yêu mến tương tự như vậy học sinh sẽ tạo các từ tiếp theo.
Với các dạng bài tập này giáo viên cần cho học sinh phân tích đề bài một cách rõ ràng. Khi cần giáo viên có thể giải thích để các em nắm được yêu cầu của bài tập. Khi hướng dẫn học sinh làm bài tập, giáo viên phải nắm chắc trình tự giảng bài, cần có những dự tính cho những tình huống và những lỗi học sinh mắc phải khi giải bài tập để sửa chữa kịp thời.
Ví dụ: Khi dạy bài : “Từ ngữ về muông thú” (tuần 23)
- Sau khi dạy xong bài, phần củng cố giáo viên yêu cầu học sinh các nhóm tìm tên các con thú nguy hiểm và thú không nguy hiểm thì lúc đó có học sinh nêu: Con rắn
- Khi đó, giáo viên phải giải thích cho học sinh hiểu rắn không phải là loài thú mà là loài bò sát nên kể tên rắn vào đây là sai.
Cuối cùng giáo viên phải kiểm tra, đánh giá nhắm kích thích hứng thú học tập của học sinh. Muốn cho học sinh một mẫu sản phẩm tốt nhất thì người giáo viên phải chuẩn bị mẫu lời giải đúng và dùng nó đối chiếu với bài làm của học sinh. Với những bài làm sai giáo viên không nhận xét chung mà chỉ rõ bài học sinh sai ở đâu và chuyển từ lời giải sai sang lời giải đúng.
d. Dạy bài khái niệm câu
Quá trình hình thành khái niệm câu có thể chỉ ra theo các bước sau:
Đưa ngữ liệu và phân tích ngữ liệu với mục đích làm rõ những dấu hiệu bản chất của khái niệm.
Khái quát hoá dấu hiệu thiết lập quan hệ giữa các dấu hiệu của khái niệm đưa thuật ngữ (học sinh nắm thao tác so sánh và tổng hợp)
Để chuẩn bị dạy khái niệm câu giáo viên cần đặt trong hệ thống chương trình để thấy rõ vị trí của nó đồng thời phải nắm chắc nội dung khái niệm. Đây chính là nội dung mà giáo viên cần đưa đến cho học sinh.
Do tính chất thực hành cũng như để phù hợp với đối tượng học sinh nhỏ tuổi theo mỗi giáo viên khi dạy cần tự lập một bảng ghi rõ thứ tự các khái niệm câu được dạy để thấy được cái nhìn tổng quát và chính xác.
Như vậy, để thực hiện giảng dạy phần khái niệm câu trong một bài, giáo viên cần linh hoạt sử dụng kết hợp các phương pháp như: trực quan, hỏi đáp, để phân tích, so sánh và giảng giải để rút ra kiến thức của bài học.
Mục đích cuối cùng của việc dạy khái niệm câu trong nhà trường là sử dụng chúng một cách có ý thức để thực hiện chính xác tư tưởng, tình cảm trong hình thức nói và viết. Vì vậy, thực hành câu nhất thiết phải được dạy một cách có định hướng, có kế hoạch thông qua hệ thống bài tập câu.
Các bài tập nhận diện, phân tích trong quá trình hướng dẫn học sinh làm bài tập giáo viên cần đặt ra những câu hỏi thích hợp đối với mỗi thành phần học sinh nhận diện ra chúng. Những bài tập xây dựng tổng hợp chủ yếu nằm ở cấp độ câu, nó được xây dựng thành nhóm:
Nhóm các bài tập theo mẫu gồm:
- Bài tập viết theo mẫu làm rõ ý nghĩa của câu
- Trả lời câu theo mẫu có sẵn.
Nhóm các bài tập này, giáo viên đưa ra các ví dụ và làm mẫu. ở đây ví dụ phải là mẫu đích thực và câu hỏi cần dần dần tăng độ khó.
Ví dụ: Khi dạy câu kiểu : Ai / là gì ? Trước khi vào bài dạy giáo viên cần phân tích mẫu, cho học sinh lấy ví dụ theo câu kiểu Ai / là gì ? Sau đó mới đi vào thực hành nói và viết theo câu kiểu Ai / là gì ?
Câu kiểu Ai / là gì ? tức là giới thiệu về người, vật  nào đó.
Ví dụ: 	- Lan / là học sinh lớp 2A (Ai / là gì ?)
	 Ai 	là gì
- Điện thoại / là phương tiện thông tin nhanh nhất (Cái gì / là gì ?)
 Cái gì	là gì
- Cò và Vạc / là đôi bạn thân (con gì / là gì?)
 	 Con gì	 là gì
Sau đó giáo viên cho học sinh thực hành với bài tập sau:
Bài tập 1: Đặt câu theo mẫu dưới đây rồi ghi vào chỗ trống:
 Ai (hoặc cái gì, con gì)
 là gì ?
Mẫu: Bạn Vân Anh
.
là học sinh lớp 2A
Bài tập 2: Ghi từ ngữ thích hợp vào chỗ trống để tạo thành câu:
 Ai (hoặc cái gì, con gì)
 Là gì ?
 Em
.
.
Là đồ dùng học tập thân thiết của em.
Các nhóm bài tập sáng tạo gồm các dạng bài tập như sau: bài tập biến dạng các kiểu câu, bài tập xác định dấu câu và tự viết hoa, bài tập xây dựng theo cấu trúc đã cho, bài tập cho trước đề bài yêu cầu đặt câu, bài tập dựa vào tranh để đặt câu, cho từ yêu cầu đặt câu Với nhóm bài tập này giáo viên cần đưa tranh để phân tích chủ đề và làm mẫu Hướng dẫn học sinh làm bài và bổ sung thêm để có những câu văn hay đủ độ lớn, có cấu trúc đầy đủ và có sức biểu hiện đồng thời dùng phương pháp trò chơi để kích thích sáng tạo, thi đua học tập của học sinh.
Giáo viên cần phải có nội dung rõ ràng về số lượng bài tập nhiều tiết không thể sử dụng hết bài tập trong sách học sinh mà phải lựa chọn hoặc làm phiếu bài tập để giảm bớt thời gian làm bài tập, tích cực hoá hoạt động của học sinh.
Khâu tổ chức làm bài tập giáo viên phải nắm được trình tự làm bài tập và dự tính được những câu trả lời của học sinh và những sai phạm mà các em có thể mắc phải để chuẩn bị sẵn phương án sửa chữa khi học sinh không giải được bài tập thì giáo viên phải cắt nhỏ từng bước để sửa sai cho học sinh.
Phải dành thời gian đúng mức cho khâu kiểm tra, đánh giá. Có thể cho học sinh kiểm tra lẫn nhau, đánh giá không nhất thiết phải cho điểm nhưng có mẫu lời giải đúng để học sinhh tự đối chiếu, đánh giá bài làm của mình.
3. Để việc dạy và học phân môn luyện từ và câu được tốt, tôi còn quan tâm tới một số điểm sau:
Giáo viên phải thường xuyên trau dồi kiến thức, lập bảng chương trình để thấy được mối quan hệ và mức độ yêu cầu của mỗi bài học.
Các bài tập cần phải phù hợp với đối tượng học sinh, giáo viên cần linh hoạt sử dụng các bài tập thiết thực có tác dụng trực tiếp đối với học sinh.
Đối với mỗi dạng bài tập cần có tài liệu tham khảo cho cả giáo viên và học sinh nhằm bổ sung kiến thức và mở rộng tầm hiểu biết. Tư duy của học sinh tạo cho các em có cơ sở để phát triển óc sáng tạo, trí tưởng tượng phong phú.
Ví dụ: Khi dạy các tiết hướng dẫn TH Tiếng Việt vào buổi chiều, với bài “Ôn các từ ngữ về loài chim” tôi đã đưa ra các câu hỏi về loài chim. Sau đó yêu cầu học sinh giải thích và nêu đặc điểm của các loài chim đó. Như:
Câu đố thứ nhất:
Con gì nho nhỏ
Cái mỏ xinh xinh
Chăm nhặt, chăm tìm
 	Bắt sâu cho lá
Con chim sâu –
Câu đố thứ hai:
Mỏ dài lông biếc
 	 Trên cành lặng yên
Bỗng vút như tên
Lao mình bắt cá
Là con chim gì?
Chim bói cá -
Câu đố thứ ba:
Mỏ cứng như dùi
 Gõ luôn không mỏi
Cây nào sâu đục
 Có tôi ! Có tôi !
Chim gõ kiến –
Câu đố thứ tư:
Con gì đậu ở trên cao
Cúc cu gáy rộn đón chào nắng mai
Chim cu gáy – 
Sau khi học sinh đã giải xong câu đố về loài chim, giáo viên hỏi: Dựa vào các câu đố ở trên con hãy nêu đặc điểm của con chim sâu, chim bói cá, chim gõ kiến, chim cu gáy?
Việc rèn luyện các kỹ năng: nghe, đọc, nói và viết cần đưa vào phân môn luyện từ và câu một cách đầy đủ hơn và thường xuyên hơn. Nhất là hai kỹ năng nói và viết. Cần chú ý sửa nói ngọng cho học sinh, sửa những lỗi chính tả cho học sinh và luyện cho các em viết các câu văn hay và nội dung đảm bảo về mặt hình thức.
Phần III : Kết luận
Phân môn luyện từ và câu có một vị trí rất quan trọng cho việc phát triển văn hoá của đất nước, bởi vì một đất nước phát triển thì trước tiên con người phải phát triển. Cho nên việc rèn luyện từ và câu cho học sinh là thiết thực mang đầy đủ ý nghĩa.
Thực tế cho thấy trong phân môn luyện từ và câu thì kỹ năng dùng từ để đặt câu là rất cơ bản và trọng tâm của môn Tiếng Việt. Muốn làm bài tập luyện từ và câu đúng và không sai yêu cầu học sinh phải nắm chắc lý thuyết và các quy tắc, định nghĩa, kỹ năng làm bài tập.
Qua kết quả thực nghiệm và thực tế giảng dạy phân môn luyện từ và câu ở lớp 2, tôi thấy để tiết dạy có kết quả tốt cần thực hiện tốt các giải pháp:
1. Soạn bài các tiết luyện từ và câu thật cẩn thận và có chất lượng.
2. Thường xuyên đọc các tài liệu, trao đổi kinh nghiệm giảng dạy, trau dồi kiến thức phân môn luyện từ và câu với các đồng nghiệp.
3.Tổ chức học tập bằng nhiều hình thức: học cá nhân, học nhóm, hái hoa dân chủ đổi mới phương pháp dạy học, phát huy tính chủ động sáng tạo của học sinh.
4. Sử dụng đồ dùng trực quan, làm tranh minh hoạ để tạo hứng thú học tập cho học sinh và nhớ nhanh nội dung bài học.
5. Dùng hệ thống câu hỏi gợi mở giúp học sinh tìm được những từ có nghĩa để đặt câu.
6. Cần quán triệt phương pháp lấy học sinh làm trung tâm, coi học sinh làm chủ thể của hoạt động nhận thức, biến các em thành người chủ động trong quá trình học tập, lĩnh hội tri thức. Các em phải hoàn toàn tự mình tham gia mọi hoạt động nhận thức và giao tiếp.
Sau khi thực hiện đề tài này, tôi nhận thấy học sinh không những học tốt phân môn luyện từ và câu mà còn học tốt cả những phân môn khác trong môn Tiếng Việt như : tập đọc, tập làm văn
Trên đây là một số sáng kiến thực hiện đề tài của tôi nhằm thực hiện đúng đổi mới phương pháp dạy học môn luyện từ và câu lớp 2 và nâng cao chất lượng dạy học để đạt kết quả cao.

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_nang_cao_chat_luong_day_va_hoc_luyen_t.doc