Báo cáo biện pháp Một số biện pháp rèn kĩ năng viết đúng, đẹp cho học sinh Lớp 2

 Chữ viết là một trong những công cụ giao tiếp thuận lợi và quan trọng nhất của con người. Chưa cần biết nội dung văn bản đó viết như thế nào nhưng nếu chữ viết rõ ràng, đẹp thường làm cho người đọc có cảm tình ngay. Vì vậy cố thủ tướng Phạm Văn Đồng khi nói về chữ viết đã có một câu rất ngắn gọn thể hiện quan điểm của ông: “Nết người, nét chữ” hàm hai ý vấn đề: thứ nhất nét chữ thể hiện tính cách con người; thứ hai thông qua rèn chữ viết để giáo dục tính cách con người. Chất lượng chữ viết của học sinh hiện nay là một vấn đề đang được mọi người quan tâm.

 Mặt khác chữ viết cũng là biểu hiện nét nhân cách của con người. Cố vấn Phạm Văn Đồng đã nói: “ Chữ viết cũng là biểu hiện của nết người. Dạy cho học sinh viết đúng, viết cẩn thận, viết đẹp cũng góp phần rèn luyện cho các em tính cẩn thận, lòng tự trọng đối với mình và bạn đọc bài vở của mình”. Trường Hiếu Thành là một trường vùng sâu của huyện.

 

doc 8 trang Thảo Ly 18/08/2023 4321
Bạn đang xem tài liệu "Báo cáo biện pháp Một số biện pháp rèn kĩ năng viết đúng, đẹp cho học sinh Lớp 2", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Báo cáo biện pháp Một số biện pháp rèn kĩ năng viết đúng, đẹp cho học sinh Lớp 2

Báo cáo biện pháp Một số biện pháp rèn kĩ năng viết đúng, đẹp cho học sinh Lớp 2
“MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG VIẾT ĐÚNG , ĐẸP CHO HỌC SINH LỚP 2”
A:Phần mở đầu
1/ Lí do chọn đè tài
 Chữ viết là một trong những công cụ giao tiếp thuận lợi và quan trọng nhất của con người. Chưa cần biết nội dung văn bản đó viết như thế nào nhưng nếu chữ viết rõ ràng, đẹp thường làm cho người đọc có cảm tình ngay. Vì vậy cố thủ tướng Phạm Văn Đồng khi nói về chữ viết đã có một câu rất ngắn gọn thể hiện quan điểm của ông: “Nết người, nét chữ” hàm hai ý vấn đề: thứ nhất nét chữ thể hiện tính cách con người; thứ hai thông qua rèn chữ viết để giáo dục tính cách con người. Chất lượng chữ viết của học sinh hiện nay là một vấn đề đang được mọi người quan tâm.
 	Mặt khác chữ viết cũng là biểu hiện nét nhân cách của con người. Cố vấn Phạm Văn Đồng đã nói: “ Chữ viết cũng là biểu hiện của nết người. Dạy cho học sinh viết đúng, viết cẩn thận, viết đẹp cũng góp phần rèn luyện cho các em tính cẩn thận, lòng tự trọng đối với mình và bạn đọc bài vở của mình”. Trường Hiếu Thành là một trường vùng sâu của huyện. Do chưa được sù quan tâm của cha mẹ nên một số học sinh chữ viết xấu, chưa sạch sẽ. Từ những vấn đề thực tế trên, tôi đã áp dụng “Một số biện pháp rèn kĩ năng viết đúng, đẹp cho học sinh lớp 2” và đã đạt được một số hiệu quả đáng kể.
2/ Mục tiêu nghiên cứu
T×m ra mét sè biÖn ph¸p rÌn kÜ n¨ng viÕt ®óng, ®Ñp trong ph©n m«n tËp viÕt nh»m n©ng cao chÊt lượng d¹y häc m«n TiÕng ViÖt cho häc sinh líp 2.
Vận dụng các nguyên tắc dạy trong phân môn chính tả, hình thành kỹ năng viết đúng chính tả cho học sinh tiểu học.
 3/Nhiệm vụ nghiên cứu
 - Dạy cho học sinh nhận biết về cấu tạo con chữ, kích thước.
 - Viết đúng, viết đẹp, rõ ràng.
 - Đặt dấu thanh đúng vị trí.
 - Trình bày đẹp, viết không sai chính tả.
 - Nắm được quy tắc viết chính tả.
4/ Phạm vi – Đối tượng nghiên cứu
 - Học sinh lớp 2/3 tôi dang trực tiếp giảng dạy năm 2020 - 2021 
 - Là những bài tập viết, chính tả trong chương trình lớp 2 ở Tiểu học.
 - Trong chương trình Tiếng Việt lớp 2.
5/ Phương pháp nghiên cứu 
 	Ngoài việc học đồng nghiệp, tôi còn sử dụng các phương pháp sau:
 	 - Phương pháp nghiên cứu tài liệu 
 	 - Phương pháp điều tra 
 	 - Phương pháp thực nghiệm
 	 - Phương pháp quan sát
 	 - Phương pháp trò chuyện
 	 - Phương pháp thống kê
 	 - Phương pháp thu thập thông tin
 	B:Phần nội dung
1. Cơ sở lí luận
 	Chữ viết là một công cụ dùng đÓ giao tiếp và trao đổi thông tin, là phương tiện để ghi chép và tiếp nhận những tri thức văn hóa, khoa học và đời sống  Do vậy, ở trường tiểu học việc dạy học sinh biết chữ và từng bước làm chủ công cụ chữ viết để phục vụ cho học tập và giao tiếp là yêu cầu quan trọng hàng đầu của môn Tiếng Việt. So với chương trình lớp 1, nội dung của phân môn tập viết lớp 2 có những yêu cầu cụ thể như sau:
 	Rèn luyện kỹ năng viết chữ cho học sinh.
* Tiếp tục rèn luyện cho học sinh kỹ năng viết các chữ thường theo cỡ nhỏ đã học ở lớp 1 nhưng mức độ yêu cầu được nâng cao: viết đúng mẫu và đều nét.
* Chính thức dạy học sinh viết chữ hoa theo cỡ vừa và nhỏ (Ở lớp 1 học sinh mới làm quen với chữ hoa qua hình thức tập tô trong giai đoạn luyện tập tổng hợp ở học kỳ 2). Để thực hiện nhiệm vụ này, giáo viên phải giúp học sinh có những hiểu biết nhất định về mẫu chữ hoa do Bộ mới ban hành nhằm tạo điÒu kiện cho các em rèn kỹ năng viết chữ. Cụ thể:
 	Nhớ được hình dáng các chữ cái viết hoa theo mẫu quy định. 
 	Nắm được kích cỡ của từng chữ cái viết hoa (thể hiện trong khung chữ, trong mối quan hệ giữa chữ cái viết thường).
 	VD: Trong cùng cỡ chữ, các chữ cái viết	hoa A, I, K, B , C
 có độ cao bằng các chữ cái viết thường 	b, g, h, k, l, y	
 riêng hai chữ cái viết hoa được viết với chiều cao 4 li Y,G.
 	 -Nắm được thao tác viết từng nét chữ để tạo nên chữ cái viết hoa (đưa nét theo
đúng quy trình viết ).
 	* D¹y học sinh biết nối (ghép) chữ cái viết hoa với chữ cái thường trong một chữ ghi tiếng đảm bảo tính thẩm mỹ, phục vụ cho yêu cầu viết chính tả và trình bày bài.
 	- Giáo viên kết hợp dạy kỹ thuật viết chữ với chính tả, mở rộng vốn từ; phát triển tư duy.
 	- Chữ viết góp phần rèn luyện những phẩm chất như tính cẩn thận óc thẩm mỹ, ý thức tự trọng người khác 
II. 	2. Thực trạng
 	Trong trường tiểu học việc dạy học sinh viết chữ là một công việc hÕt sức khó khăn chiếm nhiều thời gian và công sức của người giáo viên. Muốn học sinh tiểu học viết đúng mẫu chữ, cỡ chữ tiến tới viết nhanh viết đẹp người giáo viên phải uốn nắn từng li từng tí, phải tỉ mỉ chỉ bảo cho các em. Chính vì vậy nhiều giáo viên rất “ngại” khi rèn sửa cho các em.
 	2/1Thuận lợi
 	- Đầu năm 2020-2021, tôi được phân công giảng dạy lớp 2/3 có nhiều thuận lợi trong việc rèn chữ viết.
 	- Đa số các em đạt chữ viết đẹp ở lớp 1.
 	- Học sinh đầy đủ dụng cụ học tập.
 	- Phụ huynh quan tâm đến việc học tập của con em mình.
 	- Cơ sở vật chất đầy đủ đáp ứng nhu cầu dạy và học của học sinh.
 	2/2. Khó khăn
	* Về phía học sinh: Do đặc điểm tâm lý lứa tuổi sự tập trung chú ý của học sinh lớp 1, 2 còn yếu thiếu bền vững. Các em mau quên lại chóng chán. Chính vì vậy một số không ít học sinh còn có thái độ tiêu cực: lười biếng, cẩu thả khi viết.
	* Mặt khác cơ sở vật chất nhà trường cũng là yếu tố quan trọng ¶nh hưởng đến quá trình luyện viết của các em. 
 	 - Nhiều học sinh ngồi sai tư thế khi viết, lưng không thẳng, mắt dí sát vào vở như các em Gia Huy, Công Định, Quốc Đại, Như Ý, Minh Thiện ...cã em cầm bút bằng 5 ngón tay như Gia Huy...
 	 - Tốc độ viết rất chậm như: Gia Huy, Công Định, Quốc Đại, Như Ý.
 	 - Chữ viết chưa đạt yêu cầu thể hiện ở một số điểm:
	+ Chưa đúng hình dáng, cấu tạo chữ cái.
 	+ Không viết đúng quy trình viết chữ cái (điểm đặt bút chưa đúng ).
 	+ Không viết đúng độ cao các con chữ.
 	+ Chưa có kĩ năng viết liền mạch, liên kết chữ cái tạo chữ ghi tiếng.
 	+ Vị trí dấu thanh sai.
	* Thống kê chữ viết.
Các đợt kiểm tra
Đạt yêu cầu
( Chữ đẹp, đúng mẫu)
Chưa đạt yêu cầu
( Chữ viết chưa đúng mẫu)
SL
%
SL
%
Đầu năm
13
52
12
48
 	Với kết quả như trên tôi đã suy nghĩ ®Ó t×m ra các biện pháp để rèn ch÷ viÕt cho học sinh như sau:
	3. Giải pháp thực hiện
 	Biện pháp 1 : Phân loại chữ viết của học sinh theo các mức độ.
	Ngay từ đầu năm học tôi đã cho kiểm tra chữ viết của các em. Tôi xem xét kỹ để phân loại chữ viết của học sinh theo các mức độ khác nhau. Từ đó tôi lên kế hoạch để sửa “ lỗi”cho từng em 
	VD: Những em có điểm đặt bút chưa đúng tôi chỉ bảo cho các em cách tính dòng kẻ, xác định điểm đặt bút Những em viết chưa thẳng tôi có kế hoạch cho luyện nét sổ thẳng, chữ chưa tròn tập viết nét cong tròn Nhờ vậy các em đã nhớ lại được quy trình viết từng con chữ, biết luyện dần từng chữ. Dần dần kết quả đã tốt hơn rất nhiều 
 Biện pháp 2 : Rèn tư thế viết đúng cho học sinh. 
	Tôi nhận thấy khi học sinh ngồi viết đúng tư thế sẽ là điều kiện thuận lợi cho các em viết đúng, viết đẹp. Mặt khác việc làm đó cũng góp phần để phòng học sinh mắc bệnh cận thị khi căn bệnh này ngày một gia tăng trong nhà trường phổ thông hiện nay. Tôi đã hướng dẫn các em như sau:
	* Tư thế ngồi viết: Học sinh ngồi ngay ngắn, không tì ngực vào bàn, đầu hơi cúi, hai mắt cách vở từ 25cm – 30cm. Cánh tay trái đặt trên mặt bàn bên trái vở, bàn tay trái tì vào mép vở giữ vở không xê dịch khi viết. Cánh tay phải để ở trên mặt bàn
	Cách cầm bút: Khi viết học sinh cầm bút và điều khiển bút bằng ba ngón tay (ngón trỏ, ngón cái và ngón giữa của bàn tay phải). Đầu ngón trỏ đặt ở phía trên, đầu ngón cái giữ bên trái, phía bên phải của đầu bút tựa vào cạnh đốt đầu ngón tay giữa.
	* Vị trí đặt vở: Vở đặt nghiêng so với mép bàn một góc khoảng 30 độ nghiêng về phía bên phải.
	Để học sinh có kĩ năng trên, tôi đã làm một số công việc sau:
	- Giáo viên treo tranh mẫu tư thế ngồi viết và cách cầm bút trong phòng học ở lớp, đồng thời thu nhỏ các hình ảnh này trên một trang giấy, phát cho từng học sinh kẹp trong vở tập viết của mình để đánh dấu trang cần viết và luôn quan sát được khi viết
	- Giáo viên luôn nhắc nhở và uốn nắn tư thế viết ở tất cả giờ học chú trọng đặc biệt trong giờ tập viết.
	- Trao đổi cha mẹ học sinh về việc kiểm tra nhắc nhở con em khi tập viết ở nhà ngay trong buổi họp cha mẹ học sinh biết để uốn nắn ở nhà.
	Ngoài việc rèn tư thế tập viết đúng, tôi còn chú trọng việc phân loại các lỗi sai của học sinh trong quá trình viết để có thể rèn cho các em.
	Biện pháp 3: Sử dụng hiệu quả đồ dùng dạy học, phương tiện dạy học.
	Do đặc điểm tâm lý lứa tuổi học sinh lớp 2, tôi nhận thấy việc sử dụng đồ dùng trực quan (chữ mẫu) trong mỗi tiết tập viết là cần thiết. Đây cũng là điều kiện đầu tiên để các em viết đúng.
	Chữ mẫu có nhiều hình thức: Chữ mẫu in sẵn, chữ mẫu phóng to trên bảng, chữ mẫu trong vở tập viết, hộp chữ mẫu, chữ mẫu của giáo viên mỗi loại chữ mẫu có tác dụng khác nhau. Cụ thể:
	+ Chữ mẫu phóng to trên bảng sẽ giúp học sinh dễ quan sát. Từ đó, tạo điều kiện cho các em phân tích hình dạng, kích thước và các nét cơ bản cấu tạo chữ cái cần viết trong bài học.
	+ Chữ mẫu của giáo viên viết trên bảng giúp học sinh nắm được thứ tự viết các nét chữ của từng chữ cái, cách nối các chữ cái trong một chữ nhằm đảm bảo yêu cầu viết liền mạch, viết nhanh.
	+ Chữ viết trong hộp chữ giúp các em kết hợp mắt nhìn, tay sờ để phối hợp các thao tác viết chữ một cách đồng bộ.
	+ Chữ của cô khi chấm bài, chữa bài cũng được học sinh quan sát như một loại chữ mẫu. Vì vậy tôi luôn cố gắng viết đẹp đúng mẫu, rõ ràng.
	Tóm lại để hỗ trợ cho việc dạy tập viết đạt hiệu quả cao người giáo viên cần triệt để sử dụng các hình thức chữ mẫu cũng như nắm vững tác dụng của mỗi hình thức chữ mẫu đó
	Biện pháp 4: Rèn kỹ thuật viết chữ 
	Tập trung rèn luyện kĩ thuật liên kết liền mạch chữ cái viết hoa với chữ cái viết thường. Tôi đã phân loại các trường hợp viết liên kết như sau:
	* Trường hợp viết nối thuận lợi: Nét móc cuối cùng của chữ cái đứng trước nối với nét móc đầu tiên của chữ cái đứng sau
	VD: Bài A – Anh em thuận hoà
	Quy trình viết nối chữ Anh
	Viết chữ cái A đã học. Từ điểm cuối của nét lượn ngang thân chữ cái A lia bút xuống điểm cuối của nét móc ngưîc phải chữ cái A để viết tiếp nét nối với nét móc trái của chữ cái n. Tiếp tục viết nét móc thứ hai của n. Khi viết đến phần móc phải phía dưới lượn cong bình thường có thể viết nối với phần nét khuyết của chữ cái h, sau đó viết hoàn chỉnh chữ cái h.
	* Trường hợp viết nối không thuận lợi: đó là trường hợp nét cuối của chữ cái đứng trước với điểm bắt đầu của chữ cái đứng sau không thể viết nét nối.
	VD: Bài C – Chia ngọt sẻ bùi
	Quy trình viết chữ Chia
	Viết chữ C như đã học, từ ®iểm dừng bút của chữ C lia bót để viết tiếp chữ h rồi rê bút viết tiếp chữ cái i và chữ cái a.
	Kỹ thuật viết nối chữ (Các chữ cái viết thường).
	Việc nối chữ chủ yếu được thực hiện ở các chữ cái viết thường khi chúng đứng lại gần nhau. Dựa vào những nét cơ bản của chữ cái tiếng Việt, tôi phân loại thành 4 trường hợp nối chữ (từ dễ đến khó) và lưu ý học sinh như sau:
	(*) Trường hợp 1: nét móc cuối cùng của chữ cái trước nối với nét móc hoặc nét hất đầu tiên của chữ cái sau:
	VD: a – n = an; i – m = im; t – ư = tư...
	Nhìn chung trường hợp này viết dễ dàng thuận lợi
	Lưu ý học sinh: Khi nối 2 nét móc ở hai chữ cái, cần điều tiết về độ doãng (khoảng cách giữa 2 chữ cái) sao cho vừa phải, hợp lý để chữ viết đều nét và có tính thẩm mĩ.
	(*) Trường hợp 2: Nét cong cuối cùng của chữ cái sau với nét móc (hoặc nét hất) đầu tiên của chữ cái sau 
	VD: e - m = em; c – ư = cư... Trường hợp nối chữ này cũng tương đối dễ dàng.
	Lưu ý: Điều chỉnh khoảng cách giữa hai chữ cái sao cho không gần quá hay xa quá (VD: em,cư...) Hoặc chuyển hướng ngßi bút ở cuối nét cong (kín) để nối sang nét móc (hoặc nét hất) sao cho hình dạng hai chữ cái vẫn rõ ràng, khoảng cách hợp lý (VD ơn, oi...)
	(*) Trường hợp 3: Nét móc (hoặc nét khuyết) của chữ cái trước nối với nét cong của chữ cái sau (VD: a – c = ac, h – o = ho, y – ê = yê...) đây là trường hợp nối chữ tương đối khó, vừa đòi hỏi kỹ thuật lia bút vừa yêu cầu việc ước lượng khoảng cách sao cho vừa phải, hợp lý.
	Lưu ý học sinh:
	+ Xác định điểm kết thúc (dùng bút) ở chữ cái trước để lia bút viết tiếp chữ cái sau sao cho liền mạch tạo thành một khối các chữ cái.
	+ Điều chỉnh phần cuối nét móc của chữ cái trước hơi doãng rộng một chút để khi viết tiếp chữ cái sau sẽ có khoảng cách vừa phải (không gần quá) 
	VD: Khi hưíng dÉn häc sinh viÕt vần “ao”, gi¸o viªn lưu ý nh¾c HS điều chỉnh phần cuối nét móc của chữ a để khi viết tiếp chữ cái o sẽ có khoảng cách giữa a và o không gần quá (bằng khoảng cách giữa a và i (ai).
	(*) Trường hợp 4: Nét cong của chữ cái trước nối với nét cong của chữ cái sau VD: o – e = oe; o – a = oa; x- o = xo... Đây là trường hợp nối chữ khó nhất vừa đòi hỏi các kỹ thuật rê bút, lia bút, chuyển hướng bút để tạo nét nối vừa yêu cầu việc ước lượng khoảng cách hợp lý, trên cơ sở thói quen và kĩ năng viết khá thành thạo cña häc sinh.
	Lưu ý học sinh trêng hîp viÕt ch÷ oe, oa.:
	+ Rê bút từ điểm cuối của chữ cái o xuống để gặp điểm bắt đầu của chữ cái e sao cho nét vòng ở đầu chữ cái không được to quá (oe). Rê bút từ điểm cuối của chữ cái o sang ngang rồi lia bút viết tiếp chữ cái a (oa). 
	Ngoài ra tôi còn hướng dẫn các em cách viết liền mạch. Viết liền mạch là viết tất cả các hình cơ bản của chữ cái trong một chữ ghi tiếng rồi sau đó mới đặt dấu (kể cả dấu phụ của con chữ) và dấu ghi thanh. 
	VD Viết chữ ruộng: Viết chữ liền mạch các hình cơ bản của chữ cái thành ruong sau đó đặt dấu mũ (dấu phụ) trên 0 và dấu nặng (dấu thanh) dưới ô để thành ruộng.
	Như vậy, với việc phân tích cách liên kết, cách viết liền mạch ngay từ những bài viÕt đầu tiªn, nhiều học sinh trong lớp đã nắm được quy trình viết c¸c tõ ứng dụng. ë các bài tiếp theo, không cần sự hướng dẫn tỉ mỉ của cô giáo c¸c em còng cã thÓ viÕt ®óng ch÷ theo mÉu. Tốc độ viết chữ của cả lớp nhanh dần. Chính vì vậy chất lượng học tập cña häc sinh m«n TiÕng ViÖt được nâng lên một cách rõ rệt.
	Tập viết là một phân môn thực hành. Ngoài việc nắm được kĩ thuật viết chữ học sinh phải được luyện tập nhiều lần để hình thành kĩ năng, kĩ xảo. Vì thế việc luyện chữ viết cho học sinh là rất quan trọng.
	Biện pháp 5: Tăng cường luyện tập thực hành.
	Trước đây, trong tiết tập viết, một số giáo viên vẫn còn giảng giải nhiều thời gian luyện của học sinh còn ít... Hiện nay, để đáp ứng nhu cầu đổi mới phương pháp dạy học giờ tập viết. Giáo viên cần tạo điều kiện để học sinh thực hành nhiều, tự rút kinh nghiệm cho bản thân. Từ đó, tôi sử dụng các hình thức tập luyện sau:
	+ Học sinh tập viết chữ trên bảng lớp, trên bảng con. 
	Cách làm này rất tốt và giáo viên có thể kiểm tra được từng học sinh, uốn nắn để học sinh tự sửa chỗ sai của mình trên bảng trưíc khi viÕt vµo vë.
	- Luyện tập viết trong vở tập viết: Giáo viên cần chú ý giúp các em viết đủ, viết đúng số dòng đầu tiên ở mỗi phần bài viết để các em viết tốt hơn ở những dòng tiếp sau:
	- Luyện tập viết chữ ở các môn học khác: Giáo viên cần tận dụng việc tập viết các bài học, bài làm ở các môn học khác để học sinh tập viết .
	Để luyện tập đạt tới hiệu quả viết nhanh, đẹp, tôi thấy giáo viên cần chú ý:
	+ Rèn luyện kĩ năng viết chữ phải tiến hành toàn diện, ở lớp, ở nhà, ở đủ các môn học khác.
	+ Kiên trì sửa và rèn chữ viết cho học sinh
	Như vậy, với việc tăng cường luyện tập thực hành, học sinh lớp tôi đã có được kĩ năng viết nhanh, đẹp, từ đó rèn luyện được ý thức tự giác luyện tập trong các môn học như Toán, Tiếng Việt.
	Ngoài các biện pháp nêu trên tôi còn kết hợp các công việc sau:
	*Khuyến khích, khen ngợi kịp thời các em viết đúng, viết đẹp.
	Công việc này tưởng chừng đơn giản nhưng hiệu quả của nó cũng tương đối rõ rệt. Vì đặc điểm tâm lý của học sinh lớp 2 rất thích được khen nên với mỗi bài viết đẹp tôi vẫn cố gắng động viên các em kịp thời. Tôi dành một góc trong lớp để trưng bày các bài viết đẹp. Nhờ vậy, học sinh đã tạo được một không khí thi đua trong lớp. Các em hào hứng luyện viết và tiết học không còn khô khan nữa.
	* Kết hợp với phụ huynh học sinh trong việc rèn chữ cho các em ở nhà
	Đối tượng học sinh của tôi phần lớn là con em lao động nên bố mẹ không có thời gian cũng như không có kĩ thuật viết đúng đẹp để kèm chữ viết cho các em. Nên ngay từ buổi họp cha mẹ học sinh đầu năm học tôi đã trao đổi với phụ huynh một số điểm cần lưu ý khi dạy viết. Tôi cũng sưu tầm một số tài liệu, một số bài viết đẹp của các học sinh kh¸c, photo phát cho từng phụ huynh để các phụ huynh có cơ sở làm mẫu cho con em mình luyện viết.
	Bằng sự phối hợp các biện pháp nêu trên một cách hài hoà, chữ viết của học sinh lớp tôi tiến bộ rõ rệt; đồng thời kết quả học tập các em cũng được nâng cao qua các đợt kiểm tra.
	4.Kết quả
 	* Thống kê chữ viết.
Các đợt kiểm tra
Đạt yêu cầu
( Chữ đẹp, đúng mẫu)
Chưa đạt yêu cầu
( Chữ viết chưa đúng mẫu)
SL
%
SL
%
Đầu năm
13
52
12
48
Cuối kì I
20
80
5
20
Cuối năm
	5.Khả năng nhân rộng
	Kinh nghiệm rèn kĩ năng viết đúng, đẹp cho học sinh lớp 2 của tôi có những ưu điểm và hạn chế. Tuy nhiên khi được áp dụng ở lớp thì sự tiến bộ của các em được đồng nghiệp đánh giá cao. Do đó những lần sinh hoạt chuyên môn tổ khối tôi mạnh dạn đưa ra ý kiến cùng chia sẻ với các thành viên trong khối 2 – 3 các đồng nghiệp đã áp dụng những giải pháp, những kinh nghiệm của tôi vào giảng dạy ở lớp mình, thì kết quả ở các lớp của đồng nghiệp cũng có nhiều tiến bộ, đạt kết quả cao
1. Bùi Ngọc Trí – giáo viên lớp 2/1...............................
2.Nguyễn Thị Kim Lài – giáo viên lớp 2/4..
3. Nguyễn Hữu Thông – giáo viên lớp 2/5
	C.Kết luận – Đề xuất
	1.Kết luận
	Để việc rèn luyện cho học sinh lớp 2 có thể viết đúng, đẹp là một công việc hết sức bền bỉ, kiên trì của cả thầy và trò. Kinh nghiệm mà bản thân tôi rút ra được trong quá trình áp dụng các biện pháp đã nêu là:
	- Nắm bắt kịp thời các văn bản hướng dẫn chỉ đạo.
	- Phối hợp với CMHS để có thông tin trao đổi kịp thời.
	-Trẻ tiểu học hiếu động thiếu kiên trì. Vì vậy, người giáo viên cần có sự chu đáo, tận tình hưíng dẫn, rèn, sửa chữ viết cho các em.
	- Luôn nhắc nhở học sinh viết đúng mẫu, nhanh, đẹp ở tất cả các môn học. 
	- Tạo được không khÝ vui vẻ, phấn chấn cho trẻ khi viết.
	- Bản thân giáo viên cũng phải luyện chữ, bëi ch÷ mÉu cña c« còng lµ mét gi¸o cô trùc quan ®Ó häc sinh noi theo.
	- Có kế hoạch rèn chữ, coi rèn chữ là yếu tố quan trọng để rèn nết người .
	2. Đề xuất
	- Mong các cấp lãnh đạo quan tâm hơn nữa đến việc mở rộng tổ chức phong trào thi viết chữ đẹp, có phần thưởng động viên xứng đáng.
	- Tăng cường mở chuyên đề rèn luyện chữ viết cho học sinh.
	- Bàn ghế cải tiến cho phù hợp với từng khối lớp mặt bàn hơi nghiêng để học sinh ngồi viết thẳng lưng.
	Trên đây là một số biện pháp và kết quả bước đầu khá khả quan của tôi trong viÖc giảng dạy môn tiếng Việt nói chung và việc dạy tập viết nói riêng cho học sinh lớp 2 năm học 2020-2021. Rất mong sự đóng góp, xây dựng ý kiến của các bạn đồng nghiệp, của ban giám hiệu và của các cấp lãnh đạo ®Ó t«i cã chuyªn m«n vững vàng và tự tin hơn trong giảng d¹y. Tôi xin chân thành cảm ơn !
 Hiếu Thành ngày 20 tháng 2 năm 2021
 Người viết 
 Võ Văn Ngọc

File đính kèm:

  • docbao_cao_bien_phap_mot_so_bien_phap_ren_ki_nang_viet_dung_dep.doc