SKKN Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy tập đọc cho học sinh lớp 2 ở trường tiểu học Minh Lộc 2

- Hướng dẫn Tập đọc:

 Giáo viên cần cho các em hiểu rằng các em đọc không phải chỉ để cho cô giáo nghe mà còn cho các bạn nghe, nên cần đọc đủ to để tất cả mọi người trong phòng học cùng nghe rõ.

 Đa số các em học sinh bây giờ rất ham đọc sách nhưng chủ yếu đọc thầm. Các em đọc những truyện viễn tưởng, truyện tranh ít có tính văn học, nghệ thuật nên tuy đọc nhiều nhưng kỹ năng đọc vẫn không được củng cố và phát huy.

 Việc hướng dẫn học sinh đọc đúng, đọc trôi chảy, lưu loát trong từng bài Tập đọc thuộc trách nhiệm của người giáo viên. Ở mỗi bài Tập đọc, yêu cầu là phải đọc rõ ràng, mạch lạc và đúng. Đọc đúng là không đọc thừa không sót âm, vần, tiếng. Đọc đúng phải thể hiện đúng hệ thống ngữ âm chuẩn. Đọc đúng ở đây bao hàm cả phát âm đúng, phân biệt được các cặp phụ âm l – r, t – tr, gi – d, s – x và đọc cho đúng các thanh. Để làm được điều này, tôi luôn chú ý xem em nào mắc lỗi nào để tìm ra nguyên nhân và biện pháp sửa. Trong một bài Tập đọc không thể luyện đọc đúng được nhiều cặp phụ âm mà với từng bài Tập đọc tôi chỉ cho luyện đúng một cặp phụ âm hoặc hai cặp phụ âm là đủ.

Ví dụ: Ở bài Tập đọc “ Cây xoài của ông em” tôi chỉ cho luyện đọc cặp thanh: hỏi- ngã là những từ khó, phát âm dễ lẫn như: lẫm chẫm, quả sai lúc lỉu, trảy, nở.

 Với những học sinh hay phát âm sai thì tôi phân tích cho các em thấy đọc sai thường làm sai hẳn ý nghĩa của từ và thường xuyên gọi các em này luyện đọc đúng, kèm theo lời nhận xét động viên kịp thời. Kết quả chỉ sau một thời gian học đa số các em sửa được tật này. Điều đó làm các em rất tự tin vì không những bây giờ các em đọc đúng mà còn viết chính tả đúng.

Ví dụ: “lẫm chẫm” đọc sai thành “lẩm chẩm”, “lúc lỉu” đọc sai thành “lúc lĩu”, “ trảy” đọc sai thành “trãy”. Nếu em phát âm sai thì khi viết em sẽ viết sai theo cách đọc là: lẩm chẩm, lúc lĩu, trãy thì em viết sai chính tả.

 Để khi đọc các em chủ động được việc cần phát âm cho đúng tôi đã hướng dẫn các em bằng cách khi chuẩn bị bài cần dùng bút chì gạch chân dưới những từ có dấu thanh là “hỏi –ngã” (hoặc cặp phụ âm đầu hay sai). Để khi đọc bài gặp những từ đó thì lưu ý phát âm cho đúng. Đọc đúng còn bao gồm cả đọc không thừa, thiếu chữ và biết ngắt, nghỉ hơi sau dấu phẩy và dấu chấm. Cần phải dựa vào nghĩa giữa các tiếng, các từ để ngắt hơi cho đúng. Khi đọc không đựơc tách từ ra làm hai.

Ví dụ: “Mùa xoài nào, mẹ cũng chọn những quả chín vàng và to nhất bày lên bàn thờ ông.”

- Không ngắt: Mùa xoài nào / mẹ cũng chọn những / quả chín vàng và to nhất bày / lên bàn thờ ông.

 

doc 19 trang camtu 07/10/2022 11180
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy tập đọc cho học sinh lớp 2 ở trường tiểu học Minh Lộc 2", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy tập đọc cho học sinh lớp 2 ở trường tiểu học Minh Lộc 2

SKKN Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy tập đọc cho học sinh lớp 2 ở trường tiểu học Minh Lộc 2
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HẬU LỘC
TRƯỜNG TIỂU HỌC MINH LỘC 2
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ 
DẠY TẬP ĐỌC CHO HỌC SINH LỚP 2
Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC MINH LỘC 2
 Người thực hiện: Nguyễn Thị Ngát
 Chức vụ : Giáo viên
 Đơn vị công tác : Trường TH Minh Lộc 2
 SKKN thuộc môn: Tiếng việt
HẬU LỘC, NĂM 2017
MỤC LỤC
MỤC
NỘI DUNG
TRANG
1
Mở đầu
1
1.1
Lí do chọn đề tài
1
1.2
Mục đích nghiên cứu
1
1.3
Đối tượng nghiên cứu
2
1.4
Phương pháp nghiên cứu
2
2
Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
3
2.1
Cơ sở lí luận
3
2.2
Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
4
2.3
Giải pháp thực hiện
4
2.4
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
12
3
Kết luận, kiến nghị
14
3.1
Kết luận
14
3.2
Kiến nghị
14
1. Mở đầu
1.1. Lí do chon đề tài:
Việc đọc giúp cho con người hiểu biết, tiếp thu nền văn minh của loài người, làm giàu tâm hồn, tình cảm, giúp cho học sinh có công cụ học tập, giao tiếp và phát triển tư duy, hình thành trong học sinh các tính chất tốt đẹp – lòng yêu cái thiện, cái đẹp. Đọc trở thành một đòi hỏi cơ bản đầu tiên đối với mỗi học sinh. Nó tạo ra hứng thú, động cơ học tập các môn học khác. Vì vậy, việc dạy đọc có hiệu quả là một trong các yêu cầu cần thiết.
Đặc biệt trong thời đại ứng dụng công nghệ thông tin, nếu muốn giao lưu không chỉ qua sách vở, báo chí trong nước mà còn giao lưu trên mạng với toàn thế giới thì biết đọc, hiểu càng quan trọng vì nó sẽ giúp con người nắm bắt, sử dụng được các nguồn thông tin vô cùng phong phú. Đọc chính là học, là tiếp thu, nhận thức, đọc để tự hiểu, biết tính toán.Vì vậy, dạy tập đọc có ý nghĩa rất quan trọng.
Biết đọc đúng, đọc trôi chảy, lưu loát, ngắt câu vừa đảm bảo được đúng ngữ pháp, ý nghĩa thông tin của tác giả muốn truyền đạt cho người nghe hiểu, nhận thức được đúng cũng là góp phần làm trong sáng ngôn ngữ Tiếng Việt.
Đọc giúp các em học sinh chiếm lĩnh được ngôn ngữ để dùng trong giao tiếp và học tập. Đọc cũng là công cụ để học tập các môn học khác. Đồng thời tạo ra hứng thú và động cơ học tập. Đọc tạo điều kiện để học sinh có khả năng tự học, đó là một khả năng không thể thiếu được của con người trong thời đại hiện nay. Đọc một cách có ý thức cũng sẽ có tác động tích cực tới trình độ ngôn ngữ cũng như tư duy của người đọc.
Qua nhiều năm giảng dạy ở lớp 2 và sự giao lưu, học hỏi các bạn đồng nghiệp, tôi nhận thấy muốn cho học sinh nói và viết đúng chính tả, trước hết, phải biết cách đọc đúng, đọc lưu loát, trôi chảy văn bản. Đối với học sinh tiểu học, nhất là đối với học sinh lớp 1, lớp 2 thì yêu cầu đọc đến đâu hiểu - cảm nhận được đến đó và đọc đọc lưu loát, trôi chảy ngay khi đọc thì quả là một điều quá khó, mà giáo viên phải là người tìm ra giải pháp tốt nhất để truyền đạt, hướng dẫn, gợi ý và làm mẫu cho học sinh, tuỳ vào từng bài, từng thể loại giáo viên tìm cách khai thác, hướng dẫn cho học sinh hiểu từng đoạn văn và cả bài để có thể giúp học sinh đọc cho đúng. Ở đây, vấn đề chính là làm thế nào để học sinh thấy được tầm quan trọng của tập đọc để các em thích, có hứng thú trong giờ học và đọc lưu loát, trôi chảy được các bài thơ, bài văn. Từ những suy nghĩ đó, trong năm học 2016 – 2017 này, tôi đã chọn sáng kiến kinh nghiệm “Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy Tập đọc cho học sinh lớp 2 ở trường Tiểu học Minh Lộc 2”.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Là một giáo viên tiểu học, bản thân tôi luôn trăn trở phải làm thế nào để dạy 100% học sinh đọc đúng, đọc hiểu các văn bản được quy định trong chương trình Tiếng Việt lớp 2 và đạt được yêu cầu kiến thức, kỹ năng đã đề ra. Trên cơ sở dạy học sinh đọc đúng và hiểu các bài ứng dụng phù hợp với lứa tuổi, giáo viên còn giúp các em bước đầu mở rộng tầm nhìn ra thế giới xung quanh, rung cảm trước cái đẹp, trước những buồn vui, yêu ghét của con người. Đồng thời hình thành ở mức đơn giản trong các em những nhận thức, tình cảm và thái độ đúng đắn của con người Việt Nam hiện đại, biết phân biệt đẹp/xấu: thiện/ác; đúng/sai; biết yêu trường lớp, thầy cô, bạn bè, quê hương, đất nước; có lòng nhân ái, có ý thức về bổn phận với ông bà cha mẹ và người thân; biết bảo vệ môi trường, sống hồn nhiên, trung thực, ...
	Ngay từ khi bước vào lớp 1 học sinh đã được học Tiếng Việt và yêu cầu đối với học sinh ngày càng cao. Ở lớp 1 chủ yếu đọc hiểu được bài văn, bài thơ ngắn có nội dung đơn giản còn việc đọc trôi chảy, lưu loát, chưa đòi hỏi cao. Nhưng lên lớp 2 thì yêu cầu ngoài đọc đủ, đọc đúng còn phải đọc lưu loát, trôi chảy. Vì thế việc luyện kĩ năng đọc cho học sinh là rất cần thiết và quan trọng.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
	Đối tượng tôi áp dụng nghiên cứu là học sinh lớp 2D- Trường Tiểu học Minh Lộc 2.
1.4. Phương pháp nghiên cứu: 
	Phương pháp quan sát, điều tra; 
	Phương pháp luyện theo mẫu;
 	Phương pháp luyện tập thực hành; 
	Phương pháp vấn đáp gợi mở.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm.
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm:
	Trong trường tiểu học, tập đọc là một phân môn thực hành. Nhiệm vụ quan trọng nhất của nó là hình thành năng lực đọc cho học sinh. Năng lực đọc được tạo nên từ các kĩ năng, cũng là các yêu cầu về chất lượng của “đọc” đó là:
 - Đọc đúng.
- Đọc nhanh (đọc lưu loát, trôi chảy).
- Đọc có ý thức (thông hiểu được nội dung những điều mình đọc).
Các kĩ năng này được hình thành trong hai hình thức đọc là: đọc thành tiếng và đọc thầm. Chúng được rèn luyện đồng thời và hỗ trợ cùng nhau. Sự hoàn thiện một trong những kĩ năng này sẽ có tác động tích cực đến những kĩ năng khác.
Ví dụ: Đọc đúng là tiền đề của đọc nhanh, cũng như cho phép thông hiểu nội dung văn bản. Ngược lại, nếu không hiểu điều mình đang đọc thì không thể đọc lưu loát, trôi chảy. Nhiều khi, khó mà nói được rạch ròi kĩ năng nào làm cơ sở cho kĩ năng nào, nhờ đọc đúng mà hiểu đúng hay chính nhờ hiểu đúng mà đọc được đúng. Vì vậy, trong dạy Tập đọc, không thể xem nhẹ yếu tố nào.
Nhiệm vụ nữa của dạy Tập đọc là giáo dục lòng ham đọc sách, hình thành phương pháp và thói quen làm việc với văn bản, làm việc với sách cho học sinh. Làm cho sách trở thành một sự tôn sùng ngự trị trong nhà trường, đó là một trong những điều kiện để trường học thật sự trở thành trung tâm văn hoá. Nói cách khác, thông qua việc dạy Tập đọc, phải làm cho học sinh thích đọc và thấy được rằng khả năng đọc là lợi ích cho các em trong cả cuộc đời, phải làm cho học sinh thấy đó là một trong những con đường đặc biệt để tạo cho mình một cuộc sống trí tuệ đầy đủ và phát triển.
Nhiệm vụ khác: vì việc đọc không thể tách rời khỏi những nội dung được đọc nên bên cạnh nhiệm vụ rèn kĩ năng đọc, giáo dục lòng yêu sách, phân môn Tập đọc còn có nhiệm vụ:
Làm giàu kiến thức về ngôn ngữ, đời sống và kiến thức vừa học cho học sinh.
Phát triển ngôn ngữ và tư duy cho học sinh.
Giáo dục tư tưởng, đạo đức, tình cảm, thị hiếu thẩm mỹ cho học sinh.
 (Phương pháp dạy học Tiếng Việt 2 - NXBGD)
Để thực hiện tốt nhiệm vụ, mục đích của phân môn Tập đọc, sáng kiến kinh nghiệm: “Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy Tập đọc cho học sinh lớp 2” giúp cho học sinh lớp 2 có kĩ năng đọc.
Qua một năm áp dụng, cùng với việc vận dụng một cách linh hoạt những đổi mới trong việc dạy môn Tập đọc, vận dụng những phương pháp và hình thức tổ chức dạy học tôi thấy học sinh rất hứng thú học tiết Tập đọc và nhiều học sinh đã có kĩ năng đọc đúng, đọc lưu loát, trôi chảy ở bất cứ một bài thơ, một bài văn nào đó.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
2.2.1. Thực trạng.
 + Thuận lợi: Đa số học sinh ở trường Tiểu học Minh Lộc 2 nói chung và học sinh lớp 2D nói riêng, hầu hết đồ dùng học tập của các em đều được bố mẹ trang bị đầy đủ ngay từ đầu năm học, các em đều ngoan ngoãn, vâng lời cô giáo.
 + Khó khăn: Học sinh đầu cấp nên kỹ năng đọc chậm, còn ê a ngắt ngứ, phát âm chưa chuẩn, bộ máy phát âm còn khiếm khuyết, ngữ điệu của từng nhân vật trong bài tập đọc chưa phù hợp. Các em cũng ảnh hưởng từ gia đình, xã hội trong cách cư xử, giao tiếp: nói tiếng địa phương...
	2.2.2. Kết quả thực trạng. 
 	Lớp 2D của tôi phụ trách trong năm học này có 31 học sinh. Ngay từ đầu năm học và qua 2 tuần đầu tôi đã tìm hiểu về kiến thức môn Tiếng Việt nói chung và trong phân môn Tập đọc nói riêng, cụ thể như sau:
	Chất lượng đọc đầu năm:
Sĩ số HS
Khả năng
Số học sinh
Tỷ lệ %
 31
Đọc hay, lưu loát
7 em
22.6
Đọc đúng 
9 em
29
Đọc ê a
8 em
25.8
Đọc từng tiếng một 
7 em
22.6
 Chính vì thế, để giúp các em học tốt môn Tiếng Việt nói chung, phân môn Tập đọc thì giáo viên phải quan tâm đến kĩ năng đọc của học sinh trong phân môn Tập đọc.
2. 3. Biện pháp giải quyết vấn đề:
	Trong phân môn tập đọc tôi đã sử dụng linh hoạt 1 số phương pháp:
2.3.1. Sử dụng phương pháp quan sát, điều tra:
	- Mục đích: Phương pháp này để đánh giá mức độ học tập của học sinh thông qua giọng đọc và lời phát biểu của học sinh. 
	- Cách thực hiện: 
	Giáo viên ghi chép kết quả điều tra kĩ năng đọc của từng học sinh trong năm học trước và quan sát nhận xét học sinh trong giờ học. Để từ đó có cái nhìn khái quát về việc sử dụng vốn ngôn ngữ của học sinh. Từ đó giáo viên dễ dàng phân loại khả năng đọc của từng học sinh trong lớp, qua đó giáo viên lập kế hoạch bồi dưỡng, giúp các em phát huy khả năng của mình trong tiết học tập đọc chẳng hạn:
	Khi phân loại khả năng đọc của học sinh, giáo viên tổ chức cho học sinh luyện đọc cho phù hợp .
	+ Đối với học sinh đọc đúng, lưu loát, hiểu nội dung bài thì giáo viên cho các em đọc mẫu trước ở các phần: Luyện đọc từ khó, luyện đọc đoạn, đọc cả bài 
	+ Đối với học sinh đọc ê a, đọc phát âm chưa chuẩn, ngắt nghỉ hơi chưa hợp lý thì giáo viên nhắc nhở và cho các em luyện đọc nhiều lần. Khi đọc ở lớp, giáo viên cho các em luyện đọc theo, sau khi cô giáo hay học sinh đã đọc mẫu và kèm theo lời nhận xét, tuyên dương kịp thời nhằm động viên, khuyến khích các em, giúp các em có lòng tin và tự tin hơn trong khi đọc. Để tạo sự ham thích và hứng thú khi luyện đọc, giáo viên chọn học sinh cùng đối tượng thi đọc với nhau. Giáo viên cần quan tâm đến các em nhiều hơn và kèm theo lời nhận xét, tuyên dương kịp th ... ng đọc thừa không sót âm, vần, tiếng. Đọc đúng phải thể hiện đúng hệ thống ngữ âm chuẩn. Đọc đúng ở đây bao hàm cả phát âm đúng, phân biệt được các cặp phụ âm l – r, t – tr, gi – d, s – x và đọc cho đúng các thanh. Để làm được điều này, tôi luôn chú ý xem em nào mắc lỗi nào để tìm ra nguyên nhân và biện pháp sửa. Trong một bài Tập đọc không thể luyện đọc đúng được nhiều cặp phụ âm mà với từng bài Tập đọc tôi chỉ cho luyện đúng một cặp phụ âm hoặc hai cặp phụ âm là đủ.
Ví dụ: Ở bài Tập đọc “ Cây xoài của ông em” tôi chỉ cho luyện đọc cặp thanh: hỏi- ngã là những từ khó, phát âm dễ lẫn như: lẫm chẫm, quả sai lúc lỉu, trảy, nở.
	Với những học sinh hay phát âm sai thì tôi phân tích cho các em thấy đọc sai thường làm sai hẳn ý nghĩa của từ và thường xuyên gọi các em này luyện đọc đúng, kèm theo lời nhận xét động viên kịp thời. Kết quả chỉ sau một thời gian học đa số các em sửa được tật này. Điều đó làm các em rất tự tin vì không những bây giờ các em đọc đúng mà còn viết chính tả đúng.
Ví dụ: “lẫm chẫm” đọc sai thành “lẩm chẩm”, “lúc lỉu” đọc sai thành “lúc lĩu”, “ trảy” đọc sai thành “trãy”. Nếu em phát âm sai thì khi viết em sẽ viết sai theo cách đọc là: lẩm chẩm, lúc lĩu, trãy thì em viết sai chính tả.
 Để khi đọc các em chủ động được việc cần phát âm cho đúng tôi đã hướng dẫn các em bằng cách khi chuẩn bị bài cần dùng bút chì gạch chân dưới những từ có dấu thanh là “hỏi –ngã” (hoặc cặp phụ âm đầu hay sai). Để khi đọc bài gặp những từ đó thì lưu ý phát âm cho đúng. Đọc đúng còn bao gồm cả đọc không thừa, thiếu chữ và biết ngắt, nghỉ hơi sau dấu phẩy và dấu chấm. Cần phải dựa vào nghĩa giữa các tiếng, các từ để ngắt hơi cho đúng. Khi đọc không đựơc tách từ ra làm hai.
Ví dụ: “Mùa xoài nào, mẹ cũng chọn những quả chín vàng và to nhất bày lên bàn thờ ông.”
- Không ngắt: Mùa xoài nào / mẹ cũng chọn những / quả chín vàng và to nhất bày / lên bàn thờ ông.
- Nên ngắt: Mùa xoài nào / mẹ cũng chọn những quả chín vàng / và to nhất / bày lên bàn thờ ông.
 Việc ngắt câu phải phù hợp với các dấu câu, cụm từ có nghĩa, ngắt hơi ở dấu phẩy, nghỉ hơi ở dấu chấm, đọc đúng các ngữ điệu câu, lên giọng ở cuối câu hỏi, hạ giọng ở cuối câu kể, thay đổi giọng cho phù hợp với tình cảm cần diễn đạt trong câu cảm. Với câu cầu khiến, cần nhấn giọng phù hợp để thấy rõ các nội dung cầu khiến khác nhau. Ngoài ra cần phải hạ giọng khi đọc bộ phận giải thích của câu. Vì vậy vào bài giảng, đầu tiên giáo viên đọc mẫu rồi cho một học sinh đọc toàn bộ bài để cả lớp đọc thầm theo. Sau đó cho học sinh phát hiện các từ khó – giáo viên cho học sinh tìm cách luyện và đọc các từ khó đó dưới hình thức đọc (cá nhân, đọc đồng thanh).
	Luyện đọc theo đoạn – Giáo viên hướng dẫn học sinh làm chủ được tốc độ đọc bằng cách đọc mẫu để học sinh đọc theo tốc độ đã định. Ngoài ra còn có biện pháp đọc tiếp nối trên lớp, đọc nhẩm (đọc thầm) có sự kiểm tra của thầy (cô) giáo, của bạn để điều chỉnh tốc độ. 
	Như vậy, đọc đúng là bao gồm một số tiêu chuẩn của đọc trôi chảy, lưu loát, rõ ràng, mạch lạc. Đọc trôi chảy, lưu loát, rõ ràng, mạch lạc chỉ có thể có được trên cơ sở hiểu thấu đáo bài đọc. Đọc nhấn giọng ở những từ ngữ biểu cảm, gợi tả, phân biệt lời nhân vật, lời tác giả. Để đọc được trôi chảy, lưu loát, người đọc phải làm chủ được chỗ ngắt giọng, làm chủ được tốc độ đọc (độ nhanh chậm) làm chủ được cường độ giọng (độ cao của giọng đọc, lên giọng hay hạ giọng). – Giáo viên có trách nhiệm giúp học sinh điều này trong khi dạy học.
Ví dụ: Ở bài “ Cây xoài của ông em”, khi đọc đoạn 1: Giáo viên cần cho học sinh thấy được đọc với giọng chậm, tình cảm như là lời kể tâm tình của bạn nhỏ về người ông đã mất. Nhất là câu văn “Mùa xoài nào / mẹ cũng chọn những quả chín vàng / và to nhất / bày lên bàn thờ ông.”(cần đọc nhấn giọng các từ gạch chân để nêu bật tình cảm tôn kính và nhớ ơn của con cháu đối với người ông). Tôi đặt câu hỏi: “Theo các em, muốn đọc tốt câu văn này, ngoài việc ngắt câu, ta cần nhấn giọng những từ nào ?” và học sinh phát biểu ý kiến.
 Cuối cùng thống nhất nhấn giọng các từ: “ chín vàng”, “ to nhất”.
 Muốn được như vậy, giáo viên phải đọc mẫu cho học sinh lắng nghe và học sinh sẽ tự mình rút ra kết luận đúng.
Ví dụ: Mùa xoài nào / mẹ cũng chọn những quả chín vàng/ và to nhất / bày lên bàn thờ ông.
	Hướng dẫn và luyện cho học sinh đọc – càng nhiều học sinh được đọc càng tốt. 
2. 4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
 Quá trình áp dụng các biện pháp trên vào đọc Bài ứng dụng ở lớp 2D, Trường TH Minh Lộc 2 – Đối tượng học sinh thuận lợi, chất lượng đọc của học sinh có sự tiến bộ rõ rệt và thu được kết quả như sau:
 - Chất lượng đọc của lớp tôi ngày càng tiến bộ.
Cụ thể: 
 Chất lượng đọc cuối kì 1:
Sĩ số HS
Khả năng
Số học sinh
Tỷ lệ %
31
Đọc hay, lưu loát 
17 em
54.8
Đọc đúng 
10 em
32.3
Đọc ê a
4 em
12.9
Đọc từng tiếng một 
0 em
0
 So sánh với chất lượng đọc đầu năm học:
Sĩ số HS
Khả năng
Đầu năm học
Cuối kì 1
Tăng/giảm số hs
Tỉ lệ tăng /giảm 
31
Đọc trôi chảy, lưu loát
7 em
17 em
10 em
32.2 
Đọc đúng 
9 em
10 em
1 em
3.2
Đọc ê a
8 em
4 em
4em
12.9
Đọc từng tiếng một 
7 em
0 em
7 em
22.6
- Trong giờ Tập đọc, tôi thấy các em ngồi học rất say sưa, sôi nổi phát biểu ý kiến, hăng say học bài. Rất nhiều em xung phong, phấn khởi khi được gọi đọc bài và đọc bài hay. Điều đó chứng tỏ các em đã hiểu được nội dung, nghệ thuật của bài.
- Học sinh được nâng cao rõ rệt về đọc đúng, đọc trôi chảy, lưu loát, hình thành được kỹ năng, kỹ xảo khi đọc các bài văn, bài thơ.
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận:
 - Việc dạy theo hướng đổi mới trong các môn học nói chung và phân môn Tập đọc nói riêng, tôi đã từng bước nâng cao chất lượng giảng dạy và khả năng vận dụng các kỹ năng rèn đọc của học sinh đạt kết quả cao. Học sinh có khả năng vận dụng tốt các kiến thức đã học một cách linh hoạt và sáng tạo, gây nhiều hứng thú trong học tập.
 - Để học sinh đọc đúng, đọc trôi chảy. Việc dạy theo hướng đổi mới trong các môn học nói chung và phân môn Tập đọc nói riêng, tôi đã từng bước nâng cao chất lượng giảng dạy và khả năng vận dụng các kỹ năng rèn đọc của học sinh đạt kết quả cao. Học sinh có khả năng vận dụng tốt các kiến thức đã học một cách linh hoạt và sáng tạo, gây nhiều hứng thú trong học tập.ôi chảy, lưu loát, hiểu nội dung và ham thích đọc sách thì trong quá trình dạy học, người giáo viên cần phải biết phối hợp linh hoạt các phương pháp và có các hình thức dạy học, phối hợp, vận dụng tốt mô hình “Trường học mới” kèm theo sự đánh giá học sinh theo Thông tư 30/2014 của Bộ Giáo dục và Đào tạo để tạo không khí hào hứng, vui tươi, phấn khởi giúp học sinh thích đọc, tự tin và tiếp thu bài đọc đạt hiệu quả. Người giáo viên cần dành nhiều thời gian nghiên cứu tài liệu giảng dạy, chuẩn bị kĩ việc cần thiết phải có trong giờ Tập đọc. Ngôn ngữ giáo viên phải chuẩn mực, chính xác. 
 - Học sinh đọc tốt sẽ giúp các em học tốt môn Tiếng Việt và các môn học khác, sẽ có lợi cho các em trong học tập và trong cuộc sống sau này.
 - Việc áp dụng các hình thức, phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng đọc của học sinh, tôi nhận thấy rất phù hợp cho học sinh trên từng địa bàn khác nhau.
3.2. Kiến nghị:
Để giúp giáo viên và học sinh trên địa bàn huyện Hậu Lộc nói chung và Trường Tiểu học Minh Lộc 2 nói riêng dạy- học tốt, bản thân tôi mạnh dạn đưa ra một số ý kiến sau:
 Đề nghị các ban ngành có thẩm quyền trang bị đầy đủ trang thiết bị, đồ dùng dạy học. Đồng thời đầu tư xây dựng cơ sở vật chất đảm bảo chất lượng dạy- học đáp ứng yêu cầu, mục tiêu Giáo dục hiện nay.
 Đối với giáo viên phải:
 - Nắm chắc về nội dung chương trình, phân loại đối tượng học sinh để có biện pháp giảng dạy phù hợp với từng đối tượng học sinh.
 - Giáo viên phải linh hoạt, sáng tạo trong việc vận dụng các phương pháp và hình thức dạy học để tổ chức học sinh học tập đạt hiệu quả.
 - Tạo không khí lớp học vui tươi, lôi cuốn học sinh tham gia vào các hoạt động học tập.
 - Khi đọc bài mẫu, giáo viên phải phát âm đúng chuẩn .
 - Tổ chức nhiều hình thức luyện đọc để tiết học không bị nhàm chán.
 - Phải nghiên cứu và xây dựng nhiều trò chơi Tiếng Việt phù hợp với từng nội dung từng bài nhằm kích thích sự hứng thú học tập của học sinh.
 - Việc rèn đọc phải thực hiện thường xuyên và ở tất cả các môn học, xem đây là một việc làm không thể thiếu ở các tiết học.
 - Trong một tiết học phải quan tâm đều đến tất cả các đối tượng học sinh. Tuyệt đối không để một học sinh nào ngoài lề tiết học. Thực hiện việc tuyên dương kịp thời đối với những học sinh học tốt và đặc biệt là học sinh chậm. 
 - Giáo viên chuẩn mực, nhẹ nhàng, gần gũi, yêu thương tôn trọng học sinh.
Trên đây là một số kinh nghiệm của bản thân trong quá trình nghiên cứu tìm hiểu từ thực tế giảng dạy. Kinh nghiệm này có thể có những hạn chế nhất định. Rất mong sự đóng góp ý kiến của hội đồng khoa học các cấp, của các bạn đồng nghiệp để sáng kiến kinh nghiệm được hoàn chỉnh hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Hậu Lộc, ngày 07 tháng 03 năm 2017
 Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người khác.
Nguời viết
Nguyễn Thị Ngát
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1- Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 2.
2- Sách giáo viên Tiếng Việt lớp 2.
3- Phương pháp dạy Tiếng Việt cho học sinh cấp Tiểu học.
4- Đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu học (Dự án phát triển giáo viên Tiểu học)
DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả:.................................................................................................
Chức vụ và đơn vị công tác:.................................................................................,
TT
Tên đề tài SKKN
Cấp đánh giá xếp loại (Phòng, Sở, Tỉnh...)
Kết quả đánh giá xếp loại (A, B, hoặc C)
Năm học đánh giá xếp loại
...
* Liệt kê tên đề tài theo thứ tự năm học, kể từ khi tác giả được tuyển dụng vào Ngành cho đến thời điểm hiện tại.
----------------------------------------------------

File đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bien_phap_nang_cao_hieu_qua_day_tap_doc_cho_hoc.doc