Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp phát triển thể lực để nâng cao sức khỏe cho học sinh Lớp 5

Thế kỷ XXI - Thế kỷ của hội nhập và phát triển đất nước chúng ta đang trên đà phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, song song với đó là sự phát triển của khoa học công nghệ cao sử dụng máy móc hiện đại (tự động hóa) để sản xuất ra của cải vật chất là chủ yếu, con người sử dụng sức lao động tay, chân ngày càng ít hơn. Một số bộ phận cán bộ công nhân viên chức có tình trạng thiếu vận động. Bên cạnh đó một số học sinh hiện nay thường ham chơi các trò chơi điện tử, internet, chat Thích ăn, uống các đố ăn chứa nhiều chất ngọt hoặc chất béo, ít tham gia các hoạt động TDTT dẫn đến hiện tượng thừa chất dinh dưỡng ngày càng nhiều, biểu hiện là thừa cân, béo phì ngày càng phổ biến. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến các căn bệnh như tiểu đường, huyết áp, tim mạnh, gút

 Qua năm năm giảng dạy bộ môn Thể dục ở trường Tiểu học Định Hiệp, huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương, tôi nhận thấy rằng việc rèn luyện sức khỏe và nâng cao thể lực, trang bị cho các em học sinh có một cơ thể khỏe mạnh, có thể lực tốt, trang bị cho các em những kiến thức kĩ năng cấn thiết để tham gia vào lao động sản xuất tạo ra nhiều của cải vật chất, nâng cao hiệu quả trong công việc hoặc có sức khỏe tốt để tiếp tục học lên cao hơn nữa. Với những lí do trên thì việc phát triển các tố chất thể lực để nâng cao sức khỏe cho các em học sinh là một vấn đề hết sức cần thiết.

 

doc 24 trang Thảo Ly 17/08/2023 4340
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp phát triển thể lực để nâng cao sức khỏe cho học sinh Lớp 5", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp phát triển thể lực để nâng cao sức khỏe cho học sinh Lớp 5

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp phát triển thể lực để nâng cao sức khỏe cho học sinh Lớp 5
A / Đặt vấn đề
1. Lí do chọn đề tài 
	Thế kỷ XXI - Thế kỷ của hội nhập và phát triển đất nước chúng ta đang trên đà phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, song song với đó là sự phát triển của khoa học công nghệ cao sử dụng máy móc hiện đại (tự động hóa) để sản xuất ra của cải vật chất là chủ yếu, con người sử dụng sức lao động tay, chân ngày càng ít hơn. Một số bộ phận cán bộ công nhân viên chức có tình trạng thiếu vận động. Bên cạnh đó một số học sinh hiện nay thường ham chơi các trò chơi điện tử, internet, chat Thích ăn, uống các đố ăn chứa nhiều chất ngọt hoặc chất béo, ít tham gia các hoạt động TDTT dẫn đến hiện tượng thừa chất dinh dưỡng ngày càng nhiều, biểu hiện là thừa cân, béo phì ngày càng phổ biến. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến các căn bệnh như tiểu đường, huyết áp, tim mạnh, gút
	Qua năm năm giảng dạy bộ môn Thể dục ở trường Tiểu học Định Hiệp, huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương, tôi nhận thấy rằng việc rèn luyện sức khỏe và nâng cao thể lực, trang bị cho các em học sinh có một cơ thể khỏe mạnh, có thể lực tốt, trang bị cho các em những kiến thức kĩ năng cấn thiết để tham gia vào lao động sản xuất tạo ra nhiều của cải vật chất, nâng cao hiệu quả trong công việc hoặc có sức khỏe tốt để tiếp tục học lên cao hơn nữa. Với những lí do trên thì việc phát triển các tố chất thể lực để nâng cao sức khỏe cho các em học sinh là một vấn đề hết sức cần thiết.
2. Mục đích:
	- Nhằm tăng cường sức khỏe, đảm bảo cho cơ thể phát triển hài hòa cân đối, giữ gìn và hình thành các tư thế ngay ngắn, phát triển hệ thống cơ quan nội tạng trong cơ thể như tim mạch, hô hấp, hệ xương, hệ cơTăng cường quá trình trao đổi chất, củng cố và rèn luyện hệ thống thần kinh, phát triển các tố chất vận động, nâng cao năng lực làm việc, trang bị cho học sinh những tri thức kĩ năng, kĩ xảo vận động cần thiết cho các hoạt động khác trong cuộc sống. Góp phần vào việc hình thành các thói quen đạo đức, phát triển trí tuệ, rèn luyện tính tổ chức kỉ luật, tác phong nhanh nhẹn, có tinh thần tập thể cao. 
B/ Giải quyết vấn đề
I/ Cơ sở lý luận.
	Giáo dục thể chất là một quá trình giáo dục tác động có mục đích, có kế hoạch, có phương pháp và phương tiện nhằm phát triển các năng lực vận động của con người. Cụ thể là rèn luyện kỹ năng, hình thành các kỹ xảo vận động và phát triển các phẩm chất thể lực, góp phần tạo nên sự phát triển hài hòa giữa thể chất và tinh thần cho con người.
	* Sự phát triển các thể chất là một quá trình hình thành và biến đổi có tính quy luật các tính thuộc tính về hình thái, chức năng tự nhiên của cơ thể con người dưới ảnh hưởng của điều kiện sống, trong đó có Giáo dục thể chất. Quá trình này không những phụ thuộc vào quy luật sinh học, mà còn phụ thuộc vào các quy luật về cuộc sống xã hội, trong đó Giáo dục thể chất giữ một vai trò chủ đạo.
	Các chỉ số về số lượng bên ngoài của sự phát triển các tố chất bao gồm những thay đổi về số đo như chiều cao, cân nặng, các vòng đo, lực bóp tay, sức bật, sức bềnCòn đặc điểm về sự phát triển thể chất về mặt chất lượng thể hiện trước hết ở sự biến đổi cơ bản các khả năng chức phận của cơ thể theo các thời kì và các giai đoạn phát triển lứa tuổi, tình trạng sức khỏe, giới tính và trình độ tập luyện.
	Phát triển thể chất vừa là một quá trình tự nhiên bởi vì nó phát triển trên cơ sở tự nhiên theo bẩm sinh di truyền và tuân theo các quy luật tự nhiên như: quy luật thống nhất cơ thể với môi trường, quy luật tác động qua lại giữa sự thay đổi cấu trúc chức năng của cơ thể, quy luật thay đổi về lượng dẫn đến thay đổi về chất trong cơ thể. Nó vừa phụ thuộc vào các điều kiện sống xã hội và hoạt động của con người như điều kiện phân phối và sử dụng sản phẩm vật chất (ăn, uống); sinh hoạt (vui chơi giải trí, nghỉ ngơi); lao động sản xuất, giáo dục, TDTT
	Sự phát triển các tố chất thể lực cho học sinh có thể điều khiển theo sự dẫn dắt của giáo viên để đi đúng hướng phù hợp với sự phát triển cá nhân và nhu cầu và xu thế của xã hội. 
	Các Mác - nhà khoa học lí luận đã nhấn mạnh rằng “Giáo dục trong tương lai kết hợp lao động sản xuất với trí dục và thể dục. Đó không những là biện pháp để tăng thêm sức sản xuất của xã hội, mà còn là biện pháp duy nhất để đào tạo con người phát triển toàn diện”. Học thuyết Các Mác và Ăng-ghen về giáo dục toàn diện được Lê-Nin đi sâu và phát triển sáng tạo. Người quan tâm sâu sắc đến tương lai của thế hệ trẻ, đến cuộc sống của họ. “Thanh niên đặc biệt cần sự yêu đời và sảng khoái, cần có thể thao lành mạnh, thể dục, bơi lội, tham quan, các bài tập thể lực, những hứng thú phong phú về tinh thần, học tập, phân tích nghiên cứu và cố gắng phối hợp tất cả các hoạt động ấy với nhau, tinh thần minh mẫn sáng suốt phụ thuộc vào một thân thể khỏe mạnh”.
	Bác Hồ - Lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam sinh thời Bác rất quan tâm đến hoạt động TDTT, tư tưởng của Bác đã đặt nền tảng xây dựng nền TDTT mới của nước ta, đây là khẳng định có tính chất cách mạng của công tác TDTT, là nhu cầu khách quan của một xã hội phát triển, là nghĩa vụ của mọi người dân yêu nước. 
	Mục tiêu của TDTT là tăng cường sức khỏe của nhân dân, góp phần cải tạo nòi giống, làm cho dân cường, nước thịnh. Ngày 27 tháng 3 năm 1946 Bác đã ra lời kêu gọi toàn dân tập thể dục. Người chỉ cho nhân dân thấy rằng “Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng cần có sức khỏe mới thành công” mà muốn có sức khỏe thì “nên luyện tập thể dục” và coi đó là “bổn phận của mỗi người dân yêu nước”. “Mỗi một người dân yếu ớt tức là làm cho cả xã hội yếu ớt, mỗi một người dân mạnh khỏe tức là cả nước mạnh khỏe” Trong thư gửi hội nghị cán bộ thể dục thể thao toàn miền Bắc. Người dạy “Muốn lao động sản xuất tốt, công tác và học tập tốt, thì cần có sức khỏe. Muốn có sức khỏe thì thường xuyên tập luyện thể dục thể thao. Vì vậy, chúng ta nên phát triển phong trào thể dục thể thao cho rộng khắp” Bác còn căn dặn “Cán bộ thể dục thể thao phải học tập chính trị, nghiên cứu nghiệp vụ và hăng hái công tác, nhằm phục vụ sức khỏe của nhân dân đây là một công tác trong những công tác cách mạng khác”
	Đảng – Bác Hồ chúng ta rất coi trọng công tác TDTT, xem Giáo dục thể chất là một bộ phận khăng khít của giáo dục cộng sản chủ nghĩa. 
	Ngày nay đất nước đang đứng trước sự đổi mới và phát triển thì phong trào TDTT càng được chú trọng, nó góp phần vào giáo dục con người toàn diện. Đặc biệt là ở các trường phổ thông việc phát triển các tố chất thể lực để nâng cao sức khỏe cho các em học sinh hiện nay là một vấn đề hết sức cần thiết. Đây cũng chính là mục đích chính để tôi lựa chọn đề tài này để nghiên cứu.
II/ Thực trạng của vấn đề.
	1. Thuận lợi
	Trong xu thế đổi mới của nền giáo dục nước ta hiện nay phần lớn các em học sinh có điều kiện để tiếp thu được nhiều tri thức khoa học và cách tiếp cận vấn đề ngày càng tiến bộ hơn, đồng thời có đội ngũ thầy, cô giáo có trình độ chuyên môn ngày càng cao và tâm huyết với nghề nghiệp. Bên cạnh đó mỗi gia đình người Việt Nam hiện nay thường chỉ có một đến hai người con nên có điều kiện quan tâm, giúp đỡ, tạo điều kiện tốt nhất cho con cái được học tập. Đặc biệt là chính sách của Đảng - nhà nước ta rất coi trọng nền giáo dục xem giáo dục là nhiệm vụ “quốc sách hàng đầu”. Tổng chi cho giáo dục là 20 % trong tổng thu ngân sách nhà nước. đây là những thuận lợi để cho các em học sinh có điều kiện tiếp thu tri thức khoa học một cách tốt nhất.
	2. Khó khăn
	Do ý thức chủ quan của một số bộ phận học sinh thường lơ là trong việc tập 
luyện TDTT, chưa hiểu hết được tầm quan trọng trong việc rèn luyện thể lực để nâng cao sức khỏe cho bản thân. 
	Các nhà khoa học đã chứng minh rằng việc tập luyện TDTT thường xuyên và liên tục ít nhất 3 – 4 buổi / tuần, mỗi buổi từ 30 - 40 phút trở lên, tập các bài tập có cường độ trung bình trở lên thì mới nâng cao được thể lực và tăng cường sức khỏe. Nếu nghỉ tập luyện quá dài sẽ làm giảm sút và mất đi những hiệu quả tập luyện. 
	Hiện nay các em học sinh trường tôi đối với việc thực hiện tập luyện TDTT đều đặn và khoa học còn rất khiêm tốn. Ngoài 2 tiết Thể dục trong một tuần học chương trình chính khóa thì rất ít em có ý thức rèn luyện thêm ngoài giờ, cụ thể như vào các buổi chiều sau khi học xong hoặc buổi sáng sớm thức dậy. 
	Qua khảo sát thực tiễn học sinh lớp 5 năm học 2010 - 2011 có 30/76 em học sinh thường xuyên tập luyện TDTT ngoài giờ, chiếm tỉ lệ 39,5%. Điều đó cho thấy rằng việc ý thức tập luyện TDTT cũng như phát triển thể lực của các em học sinh còn thấp. 
	* Nguyên nhân khó khăn:
	- Do các em chưa ý thức đầy đủ về tầm quan trọng của việc tập luyện TDTT để nâng cao sức khỏe cho bản thân, 
	- Do các em chưa có hứng thú trong tập luyện, khi thích thì tập, không thích thì thôi. Không duy trì tập luyện thường xuyên, tính tự giác tích cực trong tập luyện chưa cao. 
	- Một số học sinh biểu hiện rất thích thú và bị lôi cuốn vào các trò chơi điện tử, chat trên mạng, nên ít thời gian dành cho hoạt động TDTT và lao động chân, tay.
III/ Các biện pháp giải quyết vấn đề.
	Sức khỏe của con người được cấu thành bởi 3 yếu tố quan trọng đó là: Ăn uống; nghỉ ngơi và tập luyện TDTT. Trong các yếu tố đó mỗi cá nhân con người có thể tự điều chỉnh để nâng cao sức khỏe cho bản thân.
	Tố chất thể lực của con người được chia thành những tố chất sau: Sức nhanh, sức mạnh, sức bền, khéo léo, mềm dẻo.
	Huấn luyện thể lực để nâng cao sức khỏe cho các em học sinh trước hết cần phải thực hiện các nhiệm vụ sau:
	- Giáo dục phẩm chất đạo đức và tâm lý.
	- Chuẩn bị thể lực chung, kỹ năng và năng lực vận động.
	- Các phương tiện huấn luyện.
	- Các bài tập phát triển các tố chất vận động
	- Các phương tiện tâm lý, vệ sinh, các yếu tố lành mạnh của tự nhiên.
	Quá trình huấn luyện để nâng cao thể lực cần chú ý đến lượng vận động như là thời gian tập luyện, cường độ lượng vận động, số lần lặp lại, quãng nghỉ. Cần phải tuân thủ theo các nguyên tắc tập luyện.
Nguyên tắc tự giác tích cực - Nguyên tắc tăng tiến
Nguyên tắc vừa sức và cá biệt hóa - Nguyên tắc trực quan
Nguyên t ... hi tập luyện và thả lỏng, xoa bóp sau khi tập luyện, chế độ sinh hoạt ăn uống và nghỉ ngơi hợp lí, thường xuyên tự kiểm tra và theo dõi sức khỏe, rèn luyện tính kỉ luật, ý chí, kiên trì, dũng cảm khắc phục khó khăn tự tin khi tập luyện để nâng cao sức khỏe cho bản thân.
	Cần phải đặt ra kế hoạch, nội dung và mục đích cho từng giờ, từng buổi học. 
nắm được tình hình sức khỏe của bản thân, sắp xếp các bài tập theo một trình tự hợp lí lôgic khoa học 
	* Ví dụ: Tập các bài tập sức nhanh, sức mạnh trước khi tập bài tập sức bền. để từ đó đưa ra hình thức, phương pháp, biện pháp tập luyện cho phù hợp.
	6. Xây dựng phương pháp kiểm tra y học TDTT:
	Để nâng cao sức khỏe, nâng cao hiệu quả giáo dục, ngăn ngừa các tác động xấu có thể xảy ra. Thông qua kiểm tra y học giúp người tập nắm vững được tình trạng sức khỏe, mức độ phát triển thể lực, trạng thái chức năng của cơ thể phát hiện kịp thời những biến đổi trong cơ thể trên cơ sở đó tiến hành lập kế hoạch tập luyện chính xác. 
	Nhiệm vụ của công tác kiểm tra y học là đảm bảo tính đúng đắn và hiệu quả của tất cả các hình thức và phương tiện Giáo dục Thể chất thúc đẩy phát triển hài hòa, củng cố tăng cường sức khỏe. Để thực hiện tốt các nhiệm vụ trên, công tác kiểm tra phải được tiến hành thường xuyên bằng các hình thức sau.
	- Kiểm tra y học thường kỳ đối với tất cả các em học sinh.
	- Theo dõi y học sư phạm đối với các em trong quá trình tập luyện.
	- Kiểm tra vệ sinh sân bãi, dụng cụ và các điều kiện tập luyện khác.
	- Đề phòng và điều trị chấn thương.
	- Đảm bảo y tế cho các hình thức tập luyện và thi đấu.
	- Tuyên truyền bảo hiểm y tế cho các hình thức tập luyện TDTT.
	Tự kiểm tra các chỉ số cơ bản như: Cảm giác chung, cảm giác ăn uống, giấc ngủ, mạch đập, nhịp thở, cân nặng, cảm giác đau cơ bắp, cảm giác tập luyện, thành tích tập luyện và các hành vi sinh hoạt. Các số liệu theo dõi cho phép giải thích các biến đổi của trạng thái cơ thể xác định được khả năng tập luyện của từng HS.
	+ Mạch đập: Đo mạch đập trước và sau khi tập luyện đặc biệt là sau khi chạy bền hoặc sau buổi tập 10 – 15 phút mà mạch đập vẫn cao hơn lúc bình thường 10 – 15 lần/phút thì lần vận động của buổi tập đó là quá sức so với trình độ thể lực và sức khỏe. 
	+ Lượng mồ hôi: Mồ hôi ra nhiều trong điều kiện mùa hè nóng và ẩm là điều bình thường, song sau tập luyện thời gian 1- 2 giờ mà mồ hôi vẫn ra nhiều, thậm chí ban đêm vẫn ra mồ hôi, đặc biệt ở thắt lưng thì đó là dấu hiệu lượng vận động quá mức chịu đựng.
	+ Màu da: Nếu thấy sau tập luyện da đỏ nhiều là biểu hiện đã mệt mỏi do lượng vận động cao, nhưng nếu thấy da tím, tái thì đó là biểu hiện mệt mỏi quá mức do lượng vận động cao quá sức.
	+ Cảm giác chủ quan: Rất mệt, không chịu đựng được; cảm thấy đau, rát ở cơ, khớp; cảm giác chóng mặt, buồn nôn. Đây là dấu hiệu của lượng vận động cao quá mức.
	+ Ăn uống: Mệt nhưng sau khi nghỉ ngơi vẫn ăn uống ngon miệng thì đó là dấu hiệu của lượng vận động cao phù hợp, ăn không ngon, hết mức ăn hàng ngày là lượng vận động cao đến giới hạn chịu đựng nếu thấy chán ăn trong nhiều bữa thì đó là biểu hiện của lượng vận động cao quá sức.
	+ Giấc ngủ: Mệt mỏi nhưng vẫn ngủ ngon đó là lượng vận động cao phù hợp. Nếu ngủ bị mê sảng, có cảm giác “bị đè nặng ở ngực” thì đó là lượng vận động cao đến giới hạn. Nếu bị khó ngủ hoặc ngủ liên tục thì đó là dấu hiệu của lượng vận động cao quá sức chịu đựng của bản thân.
 Lưu ý:
	 Trong quá trình tập luyện TDTT, giáo viên cần quan sát theo dõi những biểu 
hiện và cảm giác chủ quan của học sinh theo các dấu hiệu trên. Nếu thấy có những biểu hiện đến giới hạn chịu đựng thì giảm nhẹ yêu cầu tập luyện hoặc thay đổi hình thức tập luyện khác để điều chỉnh. Nếu thấy có những dấu hiệu vượt quá giới hạn chịu đựng thì lập tức phải tạm ngừng tập luyện, nghỉ ngơi hồi phục đầy đủ trong một, vài ngày để theo dõi. Nếu có chiều hướng tốt thì tiếp tục tập luyện nhẹ nhàng, đồng thời quan sát theo dõi sức khỏe, thể lực của mình một cách chặt chẽ và cẩn thận. Khi thấy cơ thể về trạng thái bình thường thì có thể từ từ nâng cao lượng vận động cao trong buổi tập tiếp theo. Trường hợp thấy có những biểu hiện mệt mỏi kéo dài thì cần phải đưa học sinh đó đến các cơ sở y tế để bác sĩ khám và cho các chỉ dẫn chuyên môn cần thiết. 
	Qua quá trình tập luyện tôi hướng dẫn cho học sinh ghi mẫu nhật ký kiểm tra tập luyện.
Cảm Nhận
người tập
Ngày tập luyện
1/1/2011
2/1/2011
4/1/2011
1.Cảm giác chủ quan 
2. Mạch đập 
 Trước tập luyện
 Sau tập luyện
3. Lượng mồ hôi
4. Màu da
5. Cảm giác ăn, uống 
6. Giấc ngủ
 . 
Tốt, bình thường.
. lần/phút
. lần/phút
 nhiều ,ít,
 tím , tái 
Ngon miệng, không.
Ngủ được, Không
..
Tốt, bình thường.
. lần/phút
. lần/phút
 nhiều ,ít,
 tím , tái 
Ngon miệng, không
Ngủ được, Không
	Đối với nhóm học sinh sức khỏe yếu hay nhóm đặc biệt, tự kiểm tra sức khỏe có vai trò quan trọng trong việc sắp xếp hợp lí nội dung tập luyện. Kết quả kiểm tra phải được phân tích thường xuyên và có sự thảo luận giữa học sinh và giáo viên để người tập biết rõ trạng thái sức khỏe của mình từ đó có thái độ đúng đắn và tự giác tích cực tập luyện. Vì vậy ngoài kiến thức y học TDTT còn có ý nghĩa giáo dục học sinh.
IV/ Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
	* Đối tượng áp dụng: Học sinh khối 5 năm học 2010 – 2011. 
	* Địa điểm: Tại sân thể dục của trường Tiểu học Định Hiệp, huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương.
	Qua quá trình giảng dạy tôi thống kê được một số tố chất thể lực của học sinh hai khóa học: 2009 – 2010 và 2010 – 2011 như sau:
So sánh 1số bài tập
Chạy 30m
Tính thời gian
(giây)
Bật xa tại chỗ
Tính quãng đường (cm)
Gập bụng
Thời gian 30 giây, tính số lần
Chạy bền
Nữ 300m; Nam 800m
TS HS
tốt
đạt
Cđ
tốt
Đạt
Cđ
tốt
đạt
Cđ
tốt
đạt
Cđ
Năm học 2009 - 2010
69
37
32
0
41
27
1
39
28
2
25
42
2
53.6
46.4
0
59.4
39.1
1.4
56.5
40.5
2.89
36.2
60.8
2.89
Dự kiến
Năm học 2010 - 2011
76
55
21
0
49
27
0
50
26
0
48
28
0
72.3
27.6
0
64.4
35.5
0
65.8
34.2
0
63.1
36.8
0
	Qua bảng tổng hợp số liệu trên ta nhận thấy kết quả rèn luyện một số tố chất thể lực của các em như sau:
	- Sức nhanh (chạy 30m) tỉ lệ học sinh thực hiện tốt, năm sau cao hơn năm trước là 18,7 % và không có học sinh nào chưa đạt.
	- Sức mạnh thể hiện sức bật của chân (bật xa) tỉ lệ học sinh thực hiện tốt, năm sau cao hơn năm trước là 5 % và học sinh chưa đạt thấp hơn năm trước 2,1%.
	- Sức mạnh thể hiện động tác gập bụng, tỉ lệ học sinh thực hiện tốt năm sau cao hơn năm trước là 9,3 % và không có học sinh nào chưa đạt.
	- Sức bền thể hiện ở môn chạy bền. Tỉ lệ học sinh thực hiện tốt năm sau cao hơn năm trước là 26,9 % và học sinh chưa đạt là 2 %.
	Quá trình rèn luyện thể lực năm học vừa qua của học sinh ta nhận thấy tình trạng thể lực tăng lên hơn hẳn so với năm trước, từ đó sức khỏe của các em cũng được nâng lên. 
C/ Kết luận
	Tập luyện thể dục thể thao bao giờ cũng dẫn đến sự mệt mỏi, làm giảm sút tạm thời năng lực làm việc. Nhờ quá trình nghỉ ngơi tích cực, ăn uống phù hợp cơ thể sẽ được phục hồi. Quá trình hồi phục diễn ra ngay sau khi kết thúc tập luyện và có thể kéo dài trong một vài ngày tùy theo mức độ nặng, nhẹ của lựng vận động trong buổi tập trước đó. Hồi phục không chỉ làm cho các chức năng của cơ thể về mức ban đầu mà còn có khả năng cao hơn (còn gọi là hồi phục vượt mức). Tổng hợp hiệu quả tập luyện trong một giai đoạn nhất định bao gồm nhiều buổi tập sẽ tạo được sự thích ứng và nâng cao được sức khỏe, thể lực, trình độ vận động cho người tập.
	Trong quá trình giảng dạy tôi đã vận dụng một số phương pháp, biện pháp đã trình bày ở trên, kết quả đạt được sau hai năm áp dụng tương đối tốt các tố chất thể lực phát triển đi lên, phần lớn các em học sinh đã ý thức tự giác tập luyện khắc phục những khó khăn, mệt mỏi, gian khổ, ý chí kiên cường sức chịu đựng lượng vận động tương đối lớn trong một thời gian dài để hoàn thành được bài tập và nâng cao sức khỏe cho bản thân. 
	Cụ thể là việc rèn luyện các tố chất thể lực được nâng lên rõ rệt, sức khỏe được đảm bảo. Từ đó tạo điều kiện tốt cho các em có sức khỏe để học tập lên cao nữa hoặc bước vào lao động sản xuất tạo ra nhiều của cải vật chất cho xã hội; xây dựng và bảo vệ tổ quốc; làm tăng đời sống tinh thần thêm phong phú, dũng cảm, mưu trí trong công việc, tăng cường sự hiểu biết đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong học tập, tránh xa lối sống bê tha phóng túng và các tệ nạn xã hội, có cuộc sống vui tươi, lành mạnh, lạc quan và yêu đời. 
	Như Bác Hồ đã nói “Luyện tập thể dục, bồi dưỡng sức khỏe là bổn phận của 
mỗi người dân yêu nước”.
	* Bài học kinh nghiệm.
	- Cần phát huy hơn nữa tinh thần tự giác tích cực, chủ động trong việc rèn luyện thể lực, tập luyện TDTT để nâng cao sức khỏe cho bản thân mỗi học sinh.
	- Tập luyện TDTT phải thường xuyên, liên tục. Trong mỗi buổi tập cần sắp xếp bài tập, thời gian tập luyện phải đảm bảo hệ thống lôgic và khoa học. Cần tuân thủ nguyên tắc và phương pháp tập luyện.
	- Luân phiên thay đổi bài tập, vận dụng các hình thức trò chơi và thi đấu nhằm giảm sự nhàm chán, buồn tẻ của bài tập từ đó tăng thêm hứng thú, tích cực hơn cho các em trong quá trình tập luyện.
	Quá trình tập luyện cần chú ý không nên ăn uống no trước khi tập ít nhất là một giờ, cần khởi động kỹ trước khi tập luyện và thả lỏng sau mỗi lần tập. Nên đảm bảo vệ sinh sân bãi, dụng cụ tập luyện an toàn sạch sẽ, có ý thức phòng ngừa chấn thương trong quá trình tập luyện, thường xuyên theo dõi và kiểm tra sức khỏe để điều chỉnh bài tập phù hợp, tập luyện nơi thoáng mát không khí trong lành, tránh những nơi gió mạnh, ẩm thấp, tiếng ồn lớn, nắng chiếu vào mặt vào gáy.
	Qua quá trình giảng dạy và tiến hành nghiên cứu đề tài này không thể tránh khỏi những sai sót. Tôi kính mong các đồng nghiệp đóng ý kiến chân thành để sáng kiến kinh nghiệm này ngày càng hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn !
Ngày 14 tháng 02 năm 2011
Người thực hiện
 Phạm Minh Tuấn 
NHẬN XÉT GÓP Ý CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC
NHẬN XÉT GÓP Ý CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC
NHẬN XÉT GÓP Ý CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_phat_trien_the_luc_de.doc