Báo cáo sáng kiến Kinh nghiệm dạy phân môn Chính tả (nghe đọc) cho học sinh Lớp 5

Giống như các phân môn khác trong môn tiếng việt, tính chất của phân

môn chính tả là tính thực hành. bởi lẻ chỉ có thể rèn luyện các kĩ xảo chính

tả cho học sinh thông qua việc thực hành luyện tập, trong phân môn này

các quy tắc chính tả, các đơn vị kiến thức mang tính chất lí thuyết không

được bố trí trong tiết dạy riêng mà dạy lồng trong hệ thống bài tập chính tả.

Mặc dù được học tập chính tả dười hình thức thực hành là chủ yếu,

nhưng những năm qua, chúng ta thấy chất lượng học tập phân môn chính tả

vẫn còn thấp. các bài văn, bài kiểm tra đều có nhiều lỗi chính tả viết sai

chính tả dẫn đến lệch nghĩa giáo viên đọc,chấm bài quá vất vả mới hiểu

được học sinh muốn viết điều gì. đây là một thực trạng đặt ra cho giáo viên

dạy tiểu học, các cấp quản lý cần nổ lực tìm kiếm những giải pháp thiết

thực nhằm nâng dần chất lượng học chính tả, rèn kĩ năng viết đúng chính tả

cho học sinh.

pdf 15 trang Huy Quân 29/03/2025 260
Bạn đang xem tài liệu "Báo cáo sáng kiến Kinh nghiệm dạy phân môn Chính tả (nghe đọc) cho học sinh Lớp 5", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Báo cáo sáng kiến Kinh nghiệm dạy phân môn Chính tả (nghe đọc) cho học sinh Lớp 5

Báo cáo sáng kiến Kinh nghiệm dạy phân môn Chính tả (nghe đọc) cho học sinh Lớp 5
 1 
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN GIAO THUỶ 
 TRƢỜNG TIỂU HỌC GIAO HƢƠNG 
********************************************* 
 SÁNG KIẾN DỰ THI CẤP HUYỆN 
 BÁO CÁO SÁNG KIẾN 
KINH NGHIỆM DẠY PHÂN MÔN CHÍNH TẢ 
( NGHE ĐỌC) CHO HỌC SINH LỚP 5 
Tên tác giả: Trần Thị Nguyệt 
Trình độ chuyên môn: Cao đẳng sƣ phạm 
Chức vụ: Giáo viên- Tổ trƣởng tổ 4&5 
Nơi công tác: Trường tiểu học Giao Hương 
 Giao Hương, tháng 3 năm 2011. 
 2 
 THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN 
1. Tên sáng kiến: kinh nghiệm dạy chính tả nghe đọc 
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến lớp 5B trường tiểu học Giao 
Hương 
3. Thời hạn áp dụng sáng kiến: Từ ngày 5 tháng 9 năm 2011 
đến ngày 15 tháng 3 năm 2011. 
4. Tác giả: 
 Họ và tên: Trần Thị Nguyệt 
 Năm sính: 24/06/74 
 Nơi thường trú: Giao Hương- Giao Thuỷ- Nam Định 
 Trình độ chuyên môn: Cao đẳng sư phạm 
 Chức vụ công tác: Giáo viên- Tổ trưởng tổ 4&5 
 Nơi làm việc: Trường tiểu học Giao Hương 
 Địa chỉ liên hệ: Trường tiểu học Giao Hương 
 Điện thoại: 03503740017 
hân môn chính tả trong nhà trường tiểu học giúp học sinh tiểu học 
hình thành năng lực và thói quen viết đúng chính tả. nói rộng hơn là 
năng lực và thói quen viết chuẩn tiếng việt. vì vậy, phân môn chính tả 
có vị trí quan trọng trong nội dung chương trình môn tiếng việt ở phổ 
thông, nhất là ở tiểu học. 
giống như các phân môn khác trong môn tiếng việt, tính chất của phân 
môn chính tả là tính thực hành. bởi lẻ chỉ có thể rèn luyện các kĩ xảo chính 
tả cho học sinh thông qua việc thực hành luyện tập, trong phân môn này 
các quy tắc chính tả, các đơn vị kiến thức mang tính chất lí thuyết không 
được bố trí trong tiết dạy riêng mà dạy lồng trong hệ thống bài tập chính tả. 
p 
 3 
mặc dù được học tập chính tả dười hình thức thực hành là chủ yếu, 
nhưng những năm qua, chúng ta thấy chất lượng học tập phân môn chính tả 
vẫn còn thấp. các bài văn, bài kiểm tra đều có nhiều lỗi chính tả viết sai 
chính tả dẫn đến lệch nghĩa giáo viên đọc,chấm bài quá vất vả mới hiểu 
được học sinh muốn viết điều gì. đây là một thực trạng đặt ra cho giáo viên 
dạy tiểu học, các cấp quản lý cần nổ lực tìm kiếm những giải pháp thiết 
thực nhằm nâng dần chất lượng học chính tả, rèn kĩ năng viết đúng chính tả 
cho học sinh. 
trong những năm gần đây, trong quá trình giảng dạy học sinh lớp 5. tôi 
đã tìm tòi một số biện pháp cần thiết để nhằm giúp học sinh lớp tôi rèn kỹ 
năng nghe viết đúng chính tả phần “nghe đọc”. 
trong năm 2009 - 2010 tôi đã phấn đấu thi giáo viên giỏi cấp cơ sở và 
chọn đề tài” “những biện pháp giúp học sinh lớp 5 học tốt môn chính tả 
phần nghe đọc” 
như đã nêu trên đề tài “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 học tốt 
phân môn chính tả phần nghe đọc” sẽ góp phần giúp học sinh lớp 5 nói 
riêng và học sinh tiểu học nói chung, bước đầu hình thành kỹ năng viết 
đúng chính tả trong giờ học chính tả và trong quá trình học tập, sử dụng 
chữ viết tiếng việt trong giao tiếp. 
đề tài này đã được tôi nghiên cứu và thực hiện năm trước (2009-2010 
) và tôi tiếp tục thực hiện đề tài này( 9/ 2010 ). qua các biện pháp tôi đã 
thực hiện được, xem xét, đối chiếu các đề tài hiện nay, đề tài của tôi có 
phần khác vì tôi tập trung vào những việc làm của giáo viên nhằm cung 
cấp, rèn luyện cho học sinh nhớ và thực hành viết đúng chính tả. 
đề tài này tôi áp dụng trên đối tượng là học sinh lớp 5 của tôi phụ 
trách tại điểm trường tiĩu hc giao h-¬ng 
ii: thực trạng 
 4 
ua những năm giảng dạy tại trường tiểu hoc giao h-¬ng tôi theo dõi 
liền gần đây thấy học sinh lớp tôi học yếu nhất là môn chính tả(nghe 
đọc). kết quả cụ thể như sau: 
năm học lớp 
ss 
hs 
giỏi khá tb yếu 
sl tl sl tl sl tl sl tl 
2008-2009 3b 31 6 19,5% 7 22,5% 13 42% 5 16% 
2009-2010 4b 30 5 16,7% 7 23,3% 10 33,3% 8 26,7% 
từ những số liệu ở bảng trên cho thấy: 
_năm học 2008-2009 chỉ có 42% học sinh khá giỏi phân môn chính tả 
và còn 58% học sinh chính tả trung bình, yếu. 
_ năm học 2009-2010 chỉ có 40% học sinh khá-giỏi phân môn chính 
tả, còn 60% học sinh học chính tả trung bình yếu. 
nguyên nhân của tình hình nêu trên là do: 
_về phía giáo viên đứng lớp. 
trong giảng dạy giáo viên chưa thể hiện hết sự tận tụy trong nghề 
nghiệp. gíao viên chỉ cần dạy đủ chương trình chứ không tận tình chỉ dẫn 
_ về phía học sinh 
+ một phần do ảnh hưởng của cách phát âm địa phương, phát âm còn 
sai những từ có phụ âm đầu dễ lẫn như: r / g, ch/ tr, v/d/g 
+ đa số học sinh chưa hiểu ích lợi của việc viết đúng chính tả, học sinh 
chưa có phương pháp học tập, một số học sinh còn lười học tập. 
_ về phía phụ huynh học sinh: 
+ trong lớp trên dưới 90% cha mẹ học sinh đều làm nghề nông, không 
có thời gian kèm cặp con cái học và chiếm một phần lớn phụ huynh học 
sinh không quan tâm đến việc học tập của con cái, gia đình chưa xác định 
đúng vai trò của việc học, gia đình cho con mình đi học miễn sao cho con 
em biết đọc và viết được là đủ rồi 
q 
 5 
từ thực trạng vừa nêu trên tôi nhận thấy cần phải có những giải pháp 
cụ thể phù hợp với lớp nhằm giúp học sinh lớp 5 của tôi học tốt phân môn 
chính tả(nghe đọc) 
iii: giải pháp 
ể học sinh viết tốt hơn phần chính tả nghe đọc, tôi lần lượt áp dụng 
các biện pháp sau: 
1/ chuẩn bị của giáo viên và học sinh 
1.1 chuẩn bị của giáo viên 
trước khi dạy một bài chính tả mới. tôi cần nắm vững kiến thức thuộc 
nội dung bài dạy và có phương pháp dạy phù hợp để cung cấp kiến thức 
cho học sinh nhằm giúp học sinh dễ ghi nhớ mà viết đúng chính tả. 
ngoài việc tôi cần đọc kỹ bài chính tả nhiều lần, tôi còn phải dự kiến 
các từ khá nếu học sinh chưa phát hiện ra khi chuẩn bị bài ở nhà. tôi còn 
chuẩn bị hệ thống câu hỏi gợi ý cho phần bài viết và bài tập thực hành 
1.2 chuẩn bị của học sinh: 
tôi yêu cầu từ đầu năm mỗi học sinh trong lớp đều có 2 quyển vở học 
chính tả, một quyển vở ở lớp và một quyển vở ở nhà, 
ngày hôm sau viết chính tả bài “viưt nam th©n yªu”. trước đó tôi dặn học 
sinh về nhà viết trước bài đó vào vở chuẩn bị ở nhà, sau đó đọc bài từ 4-5 
lần và tìm các từ khó trong bài viết, dùng bút chì gạch chân các từ khó viết 
vào v nh¸p. làm như vậy nhằm giúp học sinh đọc hiểu nội dung bài chính 
tả, rèn luyện chữ viết và giúp học sinh viết chính tả nhanh và ít sai hơn. 
2/ phát huy tính tích cực chủ động trong học tập phân môn chính 
tả của học sinh 
2.1 tăng cường việc tri giác chữ viết bằng thị giác cho học sinh: 
muốn ngăn ngừa lỗi chính tả cho học sinh tôi giúp các em ghi nhớ chữ 
viết gắn liền với nghĩa của từ: từ có vấn đề chính tả, cách tốt nhất là cung 
cấp cho học sinh từ trong ngữ cảnh. mỗi tiết học có thể cung cấp cho học 
đ 
 6 
sinh nhiều từ trong một hoặc nhiều ngữ cảnh. ngữ cảnh có ý nghĩa đặc biệt, 
giúp học sinh nắm được nghĩa của từ dễ dàng, nhẹ nhàng làm điểm tựa cho 
trí nhớ. 
khi cần sử dụng từ, nếu còn phân vân về chữ viết, các em sẽ liên tưởng 
đến ngữ cảnh và suy luận ra cách viết chữ. trong một tiết dạy chính tả tôi 
tạo điều kiện cho học sinh trở đi trở lại với từ cần ghi nhớ nhiều lần. 
chẳng hạn lần 1: vào bài học tôi yêu cầu học sinh đọc thầm bằng mắt, 
ngữ cảnh để hiểu nghĩa từ và nhớ ngữ cảnh. 
lần 2: tôi yêu cầu học sinh lựa chọn các từ trong ngữ cảnh vừa cung 
cấp để điền vào một ngữ cảnh khác 
lần 3: tôi cho học sinh đặt câu với từ vừa học, tìm từ láy, từ ghép với 
tiếng có vấn đề chính tả chưa kể việc học sinh thực hiện bài tập về nhà 
và kiểm tra bài cũ ở buổi học sau. trong một tiết, học sinh đã được mắt nhìn 
tay viết chữ có vấn đề chính tả nhiều lần. 
ví dụ: bài chính tả “xóm tôi”(tv5 ) 
lần 1: em hãy đọc thầm các câu sau đây và tìm tiếng có phụ âm đầu x 
học sinh tìm: xôi, xúp, xanh, xuống 
lần 2: em hãy lựa chọn từ có phụ âm x đầu tiếng trên đây để điền vào 
câu sau: 
“tưới cho tươi mát một vùng lúa .” 
lần 3: em hãy tạo từ ghép có tiếng”xanh”(xanh xanh, xanh xao) 
_em hãy tạo từ láy có tiếng”xanh”( xanh tươi, xanh ngắt) 
lần 4: em hãy đặt câu với mỗi từ xanh, xanh tươi, xanh ngắt 
những thao tác trên tôi đã cho các em thực hiện điền từ, đặt câu, tạo từ 
đều được thực hiện bằng mắt và tay, giảm nói và đọc 
2.2tăng cường thao tác phân tích chữ viết ở hoc sinh 
 7 
lỗi chính tả có thể xảy ra ở âm và vần trong tiếng việt. vì vậy, tôi cho 
học sinh phân tích chữ viết để có tác dụng ghi nhớ chữ viết, khắc sâu cách 
viết đi liền với nghĩa từ mà nó biểu đạt. việc phân tích chữ viết này là phải 
để cho học sinh làm. khi tiến hành phân tích chữ viết tôi buộc học sinh phải 
quan sát chữ viết một cách tường tận buộc học sinh phải viết ra chữ, thao 
tác nhiều, chữ và nghĩa sẽ gắn chặt vào trí nhớ, chắc chắn lỗi viết của học 
sinh sẽ giảm. tôi đưa ra một biểu bảng giáo viên làm mẫu một từ, còn lại tôi 
lần lượt cho học sinh trung bình yếu làm tiếp. 
với phương pháp này, tôi yêu cầu mỗi học sinh tự tìm từ khó rồi phân 
tích theo mẫu cho sẵn. như vậy mỗi học sinh có thể tự tìm và phân tích 
được nhiều từ 
ví dụ: dạy bài” những con đường ở trường sơn” 
từ hoặc cụm từ chữ phụ âm đầu vần dấu thanh 
trường sơn trường 
sơn 
tr 
 s 
ương 
 ơn 
huyền 
ngang 
đoàn xe đoàn 
xe 
đ 
 x 
oan 
 e 
huyền 
ngang 
trong long suối 
trong 
lòng 
suối 
tr 
 l 
s 
ong 
 ong 
uôi 
ngang 
 huyền 
 sắc 
đan nhau 
2.3tăng cường yêu cầu học sinh tự chữa lỗi chính tả: 
khi chấm bài chính tả, tôi chỉ cho học sinh thấy loại mà thường mắc. 
tôi yêu cầu những em thường mắc lỗi chính tả trả lời câu hỏi 
_ trong bài chính tả vừa qua em thường mắc các lỗi nào? 
 8 
_những lỗi đó ở bộ phận nào của tiếng? 
_khi học sinh đã có biết được lỗi của mình thường mắc, nếu gặp 
những chữ có “vấn đề chính tả” của mình thì các em sẽ thận trọng hơn khi 
viết chữ. trong lúc soát lại bài viết, tôi đưa ra mẫu đúng, yêu cầu học sinh 
phân tích chữ viết các em sẽ thấy được lỗi của mình và tự chữa. tôi kiểm tra 
việc chữa lỗi của học sinh. dần dần năng lực tữ kiểm tra và tự chữa lỗi của 
các em được hình thành. 
3/ tạo hứng thú học tập cho học sinh 
trong giờ học chính tả, để học sinh hứng thú học tậ

File đính kèm:

  • pdfbao_cao_sang_kien_kinh_nghiem_day_phan_mon_chinh_ta_nghe_doc.pdf