SKKN Rèn kỹ năng giải toán về tỉ số phần trăm cho học sinh Lớp 5A Trường Tiểu học số 2 An Thủy
Toán lớp 5 là một cấu thành hoàn chỉnh của chương trình môn toán ở bậc tiểu học. Chương trình tiếp tục thực hiện những yêu cầu đổi mới về giáo dục toán học “ giai đoạn học tập sâu” (so với giai đoạn trước), góp phần đổi mới giáo dục phổ thông, nhằm đáp ứng những yêu cầu của giáo dục và đào tạo trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nội dung về Giải toán có lời văn chiếm một thời lượng lớn trong nội dung chương trình môn toán lớp 5, trong đó mảng kiến thức giải toán về tỉ số phần trăm là một dạng toán khó, trìu tượng, đa dạng, phức hợp. Thế nhưng thời lượng dành cho phần này lại quá ít, chỉ 8 tiết vừa hình thành kiến thức mới vừa luyện tập.
Dạy - học về “Tỉ số phần trăm” và “Giải toán về tỉ số phần trăm” không chỉ củng cố các kiến thức toán học có liên quan mà còn giúp học sinh gắn học với hành, gắn nhà trường với thực tế cuộc sống lao động và sản xuất của xã hội. Qua việc học các bài toán về Tỉ số phần trăm, học sinh có hiểu biết thêm về thực tế,vận dụng được vào việc tính toán trong thực tế như: Tính tỉ số phần trăm các loại học sinh( theo giới tính hoặc theo xếp loại học lực,.) trong lớp mình học, trong nhà trường; tính tiền vốn, tiền lãi khi mua bán hàng hoá hay khi gửi tiền tiết kiệm; tính sản phẩm làm được theo kế hoạch dự định, . Nhưng việc dạy - học “Tỉ số phần trăm” và “Giải toán về tỉ số phần trăm” không dễ đối với cả giáo viên và học sinh Tiểu học.
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Rèn kỹ năng giải toán về tỉ số phần trăm cho học sinh Lớp 5A Trường Tiểu học số 2 An Thủy

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM RÈN KỸ NĂNG GIẢI TOÁN VỀ TỈ SỐ PHẦN TRĂM CHO HỌC SINH LỚP 5A TRƯỜNG TIỂU HỌC SỐ 2 AN THỦY PHẦN I: PHẦN MỞ ĐẦU 1.1Lí do chọn đề tài: Toán lớp 5 là một cấu thành hoàn chỉnh của chương trình môn toán ở bậc tiểu học. Chương trình tiếp tục thực hiện những yêu cầu đổi mới về giáo dục toán học “ giai đoạn học tập sâu” (so với giai đoạn trước), góp phần đổi mới giáo dục phổ thông, nhằm đáp ứng những yêu cầu của giáo dục và đào tạo trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nội dung về Giải toán có lời văn chiếm một thời lượng lớn trong nội dung chương trình môn toán lớp 5, trong đó mảng kiến thức giải toán về tỉ số phần trăm là một dạng toán khó, trìu tượng, đa dạng, phức hợp. Thế nhưng thời lượng dành cho phần này lại quá ít, chỉ 8 tiết vừa hình thành kiến thức mới vừa luyện tập. Dạy - học về “Tỉ số phần trăm” và “Giải toán về tỉ số phần trăm” không chỉ củng cố các kiến thức toán học có liên quan mà còn giúp học sinh gắn học với hành, gắn nhà trường với thực tế cuộc sống lao động và sản xuất của xã hội. Qua việc học các bài toán về Tỉ số phần trăm, học sinh có hiểu biết thêm về thực tế ,vận dụng được vào việc tính toán trong thực tế như: Tính tỉ số phần trăm các loại học sinh( theo giới tính hoặc theo xếp loại học lực,..) trong lớp mình học, trong nhà trường; tính tiền vốn, tiền lãi khi mua bán hàng hoá hay khi gửi tiền tiết kiệm; tính sản phẩm làm được theo kế hoạch dự định, ... Nhưng việc dạy - học “Tỉ số phần trăm” và “Giải toán về tỉ số phần trăm” không dễ đối với cả giáo viên và học sinh Tiểu học. Để tìm ra phương pháp dạy - học về Tỉ số phần trăm và Giải toán về tỉ số phần trăm sao cho phù hợp , không lúng túng, không đơn điệu, nhàm chán, hiểu kiến thức cơ bản và vận dụng “Giải toán về tỉ số phần trăm” là một vấn đề đặt ra của người giáo viên đứng lớp. Vì vậy yêu cầu người giáo viên phải xác đinh rõ yêu cầu về nội dung, mức độ cũng như phương pháp dạy học nội dung này. Từ đó nhằm tạo ra một hệ thống phương pháp dạy học phù hợp với đối tượng học sinh, đáp ứng được yêu cầu về đổi mới PPDH theo chương trình thay sách giáo khoa ở Tiểu học. Đối với HS tiểu học, các em đã được làm quen với những dạng toán cơ bản. Từ việc vẽ những sơ đồ cụ thể, các em dễ dàng tìm ra được các lời giải bài toán. Chẳng hạn bài toán về tìm hai số khi biết tổng và hiệu, tổng và tỉ, hiệu và tỉ của hai số đó Tuy nhiên không phải lúc nào cũng vẽ được sơ đồ của bài toán ví dụ như bài toán về tỉ số phần trăm. Mặc dù đã biết cách tìm tỉ số phần trăm của hai số nhưng những bài toán áp dụng trong đời sống hàng ngày về tỉ số phần trăm vẫn là những điều khó đối với đa số học sinh. Chính vì vậy, với yêu cầu đặt ra là HS phải nắm vững cách giải 3 bài toán cơ bản: + Tìm tỉ số phần trăm của hai số + Tìm một số phần trăm của một số + Tìm một số khi biết một số phần trăm của nó. Khi HS có kĩ năng giải từng bài toán cụ thể, gặp những bài toán mang tính tổng hợp, ẩn làm thế nào để các em nhìn ra dạng toán, đưa về bài toán cơ bản hay một số bài toán khác có liên quan đến tỉ số phần trăm và giải được. Đó là câu hỏi khó – Tôi phải trăn trở và suy nghĩCuối cùng tôi đã tìm ra một hướng đi, một giải pháp vận dụng vào thực tế của lớp mình và đã thu được kết quả khả quan. Tôi mạnh dạn đưa ra kinh nghiệm của bản thân: “Rèn kĩ năng giải toán về tỉ số phần trăm cho học sinh lớp 5A, Trường Tiểu học số 2 An Thủy”. 1.2 Phạm vi nghiên cứu: Các bài toán có liên quan đến tỉ số phần trăm ở Toán Tiểu học. PHẦN II: NỘI DUNG 2.1. THỰC TRẠNG CỦA NỘI DUNG CẦN NGHIÊN CỨU: Trong quá trình dạy học hiện nay, ngoài công tác dạy - học theo đúng chuẩn kiến thức kĩ năng cần đạt của môn học, thì việc phát hiện và bồi dưỡng học sinh năng khiếu không kém phần quan trọng, và được quan tâm chú trọng hơn trong những năm học gần đây. Qua quá trình dạy học, tham gia việc nâng cao chất lượng mũi nhọn cho học sinh, cũng như việc thường xuyên nghiên cứu nhiều tài liệu tham khảo liên quan đến toán học, tôi nhận thấy rằng: 2.1.1, Về học sinh : Với đặc điểm tâm sinh lý của học sinh Tiểu học thì tính tư duy trừu tượng chưa cao, mới chỉ ở trong giai đoạn hình thành và phát triển. Do vậy việc tiếp nhận tri thức của các em trong quá trình học tập chủ yếu vẫn đang thiên về tính cụ thể, bắt chước, làm theo, học tập theo mẫu. Mặc dù vẫn biết rằng phương pháp dạy học mới đang phát huy tính độc lập, sáng tạo và nâng cao năng lực tư duy trừu tượng cho các em, thế nhưng cũng không thể thay đổi hoàn toàn được đặc điểm này của lứa tuổi học sinh Tiểu học. Từ lí do này và qua quá trình dạy bồi dưỡng học sinh giỏi khối 5 cho thấy học sinh còn hết sức mơ hồ, chưa thể hiểu một cách cặn kẽ và làm tốt các bài tập ở một dạng toán nào đó (Dạng lạ chưa được đưa về dạng quen ), khi mà chưa được giáo viên cung cấp kiến thức một cách hoàn chỉnh và có hệ thống. Trường hợp mà đề tài tôi nghiên cứu cũng không phải là một ngoại lệ. Lí do là các em thiếu hụt kiến thức cơ bản của các dạng toán này. 2.1.2, Về giáo viên : Hiện nay đội ngũ giáo viên các nhà trường nói chung cũng như Trường Tiểu học số 2 An Thủy nói riêng đều đạt chuẩn và trên chuẩn; trẻ, khỏe, năng nổ, nhiệt tình và năng lực tư duy khá tốt. Song do tuổi đời còn trẻ, tuổi nghề còn non vì thế mà kinh nghiệm dạy học còn ít, vốn tích lũy kiến thức và hệ thống chương trình môn học của từng khối lớp chưa sâu, dẫn đến việc cố gắng dạy - học cho học sinh trên lớp đúng, đủ, chính xác và đạt chuẩn đã là hết sức khó khăn, chứ nói gì đến công tác phát hiện và bồi dưỡng học sinh năng khiếu đạt hiệu quả cao. Bên cạnh đó có nhiều giáo viên tuy năng lực chuyên môn rất tốt nhưng phương pháp truyền thụ lại bị hạn chế. Vì vậy, hiệu quả dạy - học vẫn còn chưa chưa đáp ứng được. Nhiều giáo viên có năng lực được chọn làm hạt nhân trong công tác bồi dưỡng, nhưng việc cung cấp kiến thức cho học sinh cũng mới chỉ nghiên cứu trên phương diện tư liệu có sẵn, chứ chưa chịu đào sâu kiến thức của từng dạng bài cụ thể, những nội dung ở sách giáo khoa và sách tham khảo không đề cập tới. 2.1.3, Về tài liệu tham khảo : Trên thực tế, bản thân tôi tham gia công tác bồi dưỡng. Với lòng say mê nghiên cứu và tìm hiểu nhiều tư liệu tham khảo nhằm nâng cao trình độ và thuận lợi cho việc bồi dưỡng thì tôi nhận thấy rằng : Tài liệu tham khảo là một tư liệu cơ bản không thể thiếu trong quá trình dạy học của người giáo viên, đặc biệt là các đồng chí giáo viên tham gia làm công tác nâng cao chất lượng mũi nhọn trong các nhà trường. Về cơ bản, các tư liệu có tính ưu việt cao. Song bên cạnh đó, trong nhiều tài liệu còn có một số hạn chế nhất định và chưa đáp ứng hết được lòng đam mê khám phá toán học của nhiều giáo viên và học sinh. Nhiều dạng toán ở tài liệu tham khảo đưa ra hướng giải quyết chưa có tính thuyết phục cao, chưa sắp xếp các bài tập theo từng mạch logic trong cùng một dạng bài vì kiến thức mỗi người có hạn, lĩnh vực toán học thì rất rộng lớn. Để kiểm chứng tính thuyết phục và triết lí đưa ra của sáng kiến, trước khi triển khai thực nghiệm, tôi đã tổ chức khảo sát chất lượng học sinh ở trường về dạng toán này. Đề bài Bài 1: Lớp 5B có 24 học sinh nữ, 12 học sinh nam. Tìm tỉ số phần trăm của HS nam so với HS nữ. Bài 2: 25% của sân trường diện tích 800 m2 có bóng cây che mát. Tính phần diện tích sân trường không có cây che? Bài 3: Biết 35,5 km là 40% chiều dài của con đường. Tính chiều dài của con đường? Bài 4: Tìm diện tích hình chữ nhật. Biết rằng nếu chiều dài tăng 20% và chiều rộng giảm 20% số đo thì diện tích bị giảm 30 m2 * KẾT QUẢ KIỂM TRA HỌC SINH : TT ĐƠN VỊ, LỚP SỐ LƯỢNG HS KẾT QUẢ G K TB Y SL TL SL TL SL TL SL TL 1 Lớp thực nghiệm 5A 25 0 0 7 28 18 72 0 0 Từ những thực trạng và nguyên nhân cơ bản đó đã làm cho nhiều giáo viên lúng túng trong cách dạy, nhiều học sinh lúng túng trong cách giải. Với trách nhiệm là những người làm công tác bồi dưỡng học sinh năng khiếu (khá, giỏi), bản thân tôi phải suy nghĩ, tìm tòi, chắt lọc và lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp, với mục đích khắc phục những hạn chế trong quá trình dạy - học; nhằm hoàn thiện về dạng toán này một cách cụ thể và chi tiết hơn. 2.2 Các giải pháp khắc phục: Qua thực tế lớp mình, tôi hướng dẫn các em theo trình tự sau: + Trước hết kiểm tra, phân loại đối tượng HS trong lớp thật cụ thể: Giỏi, khá, trung bình, yếu kém; tìm hiểu nguyên nhân của việc giải toán sai của từng em là do chưa tập trung theo dõi bài, nhận dạng toán sai, lời giải sai hay làm tính sai, + Với những em do chưa tập trung chú ý dẫn đến giải nhầm thì GV nhắc nhở, dành thời gian, hướng dẫn, giúp đỡ các em từng bài toán và cách tính. Thường thì những em này tiếp thu rất nhanh. Còn những em nhận dạng toán sai, lời giải sai, làm tính sai, tức là chưa nắm được bản chất bài toán về tỉ số phần trăm. Tôi đã phân lớp thành 2 nhóm cơ bản ( Nhóm 1: HS trung bình và yếu thuộc dãy 1,2; Nhóm 2: HS khá giỏi thuộc dãy 3) và thực hiện hướng dẫn theo từng bước cụ thể như sau: A. Củng cố luyện tập 3 bài toán cơ bản: Dạng 1: Hướng dẫn HS luyện tập bài toán 1: Tìm tỉ số phần trăm của hai số Phần lí thuyết: * Trò chơi “Đố bạn”: Một lớp học có 28 HS, trong đó có 7 em học giỏi toán. Hãy tìm tỉ số phần trăm HS giỏi toán so với HS cả lớp? Sau khi đọc đề, nắm yêu cầu HS nêu kết quả: - Nhóm 1: Là 400% vì lấy 28 : 7 x 100 = 400% - Nhóm 2: Là 25% vì lấy 7 : 28 = 0,25; 0,25 = 25% - Nhóm 3: 7 em HS giỏi bằng 4 1 số HS cả lớp mà 4 1 của 100 là 25% Tôi ghi cả 3 cách làm trên và gợi mở: + Bài toán cho gì? ( lớp có 28 HS, Giỏi toán7 em) + Bài toán yêu cầu tìm gì?( Tỉ số phần trăm HS giỏi toán so với HS cả lớp) + Muốn tìm tỉ số phần trăm HS giỏi toán so với HS cả lớp ta làm như thế nào? (Ta lấy số HS giỏi toán chia cho số HS cả lớp nhân với 100 rồi viết kí hiệu % vào bên phải số đó) + GV giải thích lại cho HS về ý nghĩa của tỉ số phần trăm: Tỉ số phần
File đính kèm:
skkn_ren_ky_nang_giai_toan_ve_ti_so_phan_tram_cho_hoc_sinh_l.pdf