Sáng kiến kinh nghiệm Sự cần thiết của thực hành vật lý trong dạy học

B5. Các nhóm thảo luận, xử lý, trình bày kết quả: Sau khi các nhóm thực hiện thí nghiệm xong (có thể trong quá trình thí nghiệm) các nhóm tự thảo luận, xử lý kết quả của nhóm mình sau đó trình bày kết quả trên bảng phụ của nhóm hoặc phiếu học tập mà GV đã hướng dẫn trước đó.

B6. Lớp thảo luận thống nhất: Sau khi các nhóm trình bày kết quả thí nghiệm GV cho cả lớp cùng thảo luận kết quả từ đó đi đến thống nhất chung về kết quả thhực hiện được.

 *Trong những bài thí nghiệm ở phần Điện học trình tự tiến hành thí nghiệm như trên, tuy nhiên nó cũng có những đặc thù riêng của phần Điện học, cụ thể:

- Ôn lại các kiến thức cũ của các bài trước và các kiến thức quan trọng có liên quan mà HS đã được học ở lớp 7

- Chuẩn bị đầy đủ các linh kiện, đồ dùng (nên soạn riêng từng mâm cho mỗi nhóm)

- Vẽ hình mạch điện lên bảng phụ, yêu cầu HS cho biết công dụng và cách mắc từng bộ phận trong sơ đồ mạch điện

- Dựa vào mạch điện, hướng dẫn từng bước cho HS mắc mạch điện theo sơ đồ.

- Chú ý đặt các dây dẫn điện phải liên tục để dễ quan sát (hạn chế đan chéo nhau)

- GV nhắc HS trong khi ráp mạch điện phải để khóa K hở. Sau khi nhóm nào báo ráp xong, GV đến kiểm tra cho HS đóng khóa K.

- Nếu nhóm nào khi đóng khóa K mà thấy kim của các dụng cụ quay ngược lại thì lập tức ngắt khóa k và kiểm tra, đổi cực ở hai chốt của dụng cụ.

- HS biết đọc các số chỉ thị trên mặt đồng hồ đo, giá trị một khoảng chia ( đối với những loại vôn kế hoặc ampe kế có 2 thang đo thì phải đọc thang trên hay thang dưới)

- GV phải biết cần cho HS mắc vôn kế và ampe kế với thang đo như thế nào để không hư dụng cụ.

- Nên theo dõi thí nghiệm ở các nhóm để có thể giúp các em thực hành đúng động tác và nhất là đọc đúng số chỉ của các dụng cụ đo.

- Cần bố trí thêm một bộ dụng cụ thí nghiệm để phòng có các dụng cụ hư của các nhóm .

- Riêng các tiết thực hành thì học sinh có thêm nhiệm vụ phải hoàn thành mẫu báo cáo trong sách giáo khoa.

* Đo lường và thu thập dữ liệu

Sau khi thực hiện các phương pháp để rèn luyện cho học sinh các kỹ năng làm thí nghiệm Vật lí trong phần điện học đã đem lại kết quả khả quan hơn so với kết quả khi chưa sử dụng. Đồng thời kể từ khi áp dụng vào các bài có thí nghiệm thực hành thì tôi nhận thấy một số điểm sau:

 

doc 11 trang camtu 07/10/2022 4980
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Sự cần thiết của thực hành vật lý trong dạy học", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Sự cần thiết của thực hành vật lý trong dạy học

Sáng kiến kinh nghiệm Sự cần thiết của thực hành vật lý trong dạy học
ĐỀ TÀI
“SỰ CẦN THIẾT CỦA THỰC HÀNH VẬT LÝ TRONG DẠY HỌC”
I. PHẦN MỞ ĐẦU:
I.1. Lý do chọn đề tài:
Vật lí học là một môn khoa học tự nhiên, nó nghiên cứu tìm hiểu các quy luật, các hiện tượng tự nhiên, nó nghiên cứu các khái niệm về vật lí, các định luật, các thuyết. Từ đó có thể rút ra được kết luận ứng dụng vào thực tế cuộc sống. Vì vậy, Vật lí học là cơ sở của nhiều ngành kỷ thuật quan trọng, sự phát triển của khoa học vật lí gắn bó chặt chẽ và tác động qua lại trực tiếp với sự tiến bộ của khoa học kỉ thuật. Do đó, những hiểu biết và nhận thức về vật lí có giá trị to lớn trong đời sống và trong sản xuất, đặc biệt là trong thời đại hiện nay.
Với sự nghiệp CNH-HĐH đất nước mở cửa để hội nhập với cộng đồng thế giới. Trong nền kinh tế cạnh tranh quyết liệt, đòi hỏi công tác giáo dục ở nước ta phải có sự đổi mới sâu sắc và toàn diện, nhằm đào tạo thế hệ trẻ trở thành những người vừa tiếp thu những tinh hoa văn hóa của nhân loại, vừa phát huy bản sắc dân tộc, vừa có khả năng tự học, tự giác, chủ động và sáng tạo phù hợp với con người mới XHCN.
Để làm được điều đó thì ở trường THCS sự đổi mới đó phải được thực hiện thông qua việc dạy các môn học trong đó có bộ môn Vật lí.
Yêu cầu đổi mới PPDH đối với môn Vật lí còn có một số điểm riêng so với các môn khác: Phải hướng tới việc tạo điều kiện cho HS tự chiếm lĩnh kiến thức thông qua hoạt động thực nghiệm, những kiến thức Vật lí mà giáo viên giảng dạy phải làm cho HS hiểu đúng đắn về thế giới tự nhiên, cho HS tin vào khả năng làm được của bản thân, tin tưởng vào các sự vật hiện tượng xung quanh luôn tồn tại, luôn vận động, có nhiều điều HS chưa thấy, chưa giải thích được các hiện tượng, nhờ các thí nghiệm thực hành các em tự tay lắp và làm thí nghiệm (TN), quan sát hiện tượng rút ra nhận xét hay kết luận, từ đó kích thích hứng thú học tập bộ môn, đồng thời vận dụng những kiến thức đó vào cuộc sống để giải thích các sự vật, hiện tượng xung quanh.
Tư duy Vật lí khác với tư duy Toán học ở chỗ là nó không bằng lòng với những lập luận chặt chẽ mà đòi hỏi cần có sự kiểm nghiệm của thực tế, bằng các thí nghiệm thực hành. Vì các hiện tượng Vật lí xảy ra trong tự nhiên vô cùng phức tạp, vì vậy cần phải có các TN Vật lí để đơn giản hóa hiện tượng, làm nổi bật khía cạnh cần nghiên cứu của hiện tượng, tức là làm cho quá trình tự nhiên xảy ra rõ ràng nhất. Nhờ đó làm HS nhận ra các tính chất đặc trưng của hiện tượng. Phần điện học là một phần tương đối quan trọng trong chương trình vật lí(cả cấp THCS và THPT), nó chiếm phần lớn trong chương trình học vật lí của cả hai cấp học.Vì vậy, việc rèn luyện cho HS kỷ năng làm TN thực hành trong giờ Vật lí là rất quan trọng trong việc nâng cao chất lượng giáo dục môn vật lí không chỉ ở cấp THCS mà nó còn là nền tảng để các em có một kiến thức vững chắc ở cấp THPT.
Đối với bản thân, là giáo viện dạy Vật lí, vời thời gian giảng dạy đã lâu tôi đã thấy được tầm quan trọng của các TN thực hành trong giờ dạy Vật lí, nhất là các TN ở phần Điện học, là một chương quan trọng trong chương trình. Cho nên, việc rèn luyện cho HS kỹ năng làm TN thực hành Vật lí để rút ra kiến thức là rất cần thiết. Đó cũng là lí do tôi chọn làm đề tài này.
Nghiên cứu việc làm TN thực hành Vật lí 9 phần điện học nhằm giúp HS nắm vững và chắc kiến thức hơn để nâng cao chất lượng dạy và học ở trường THCS Lê Quý Đôn.
Nghiên cứu quá trình thực hiện giải pháp trong giảng dạy của bản thân về việc giúp HS lớp 9 có kỹ năng làm TN thực hànhVật lý và ghi kết quả.
Nghiên cứu quá trình HS vận dụng giải pháp để làm TN thực hành nắm kiến thức. Từ đó biết mức độ nhận thức, tư duy của HS với khi chưa thực hiện giải pháp.
Với những kiến thức mà HS rút ra được từ việc giảng giải, nghe hiểu thì không thể nào HS hiểu và khắc sâu kiến thức lâu được. Đồng thời, khi HS vận dụng kiến thức vào thực tiễn cuộc sống thì kỹ năng thực hành, thao tác của HS sẽ bị lủn củn, không thành thạo, cảm thấy mới lạ. Vì vậy, theo tôi nghĩ nếu tiến hành như vậy thì chưa thật sự rèn cho HS một số kỹ năng, đồng thời chỉ áp đặt kiến thức, HS không có thói quen học tập theo hướng tích cực chủ động. Do đó, chỉ khi HS làm TN để rút ra kiến thức thì HS mới nhớ lâu và nhớ sâu được, nên khi những kiến thức đó được vận dụng ngược vào thực tế thì các em sẽ cảm thấy quen thuộc và làm thành thạo hơn. Như vậy không những rèn cho HS có kĩ năng thực hành mà còn thành thạo phương pháp hợp tác nhóm nhỏ để học tập kinh nghiệm lẫn nhau.
Dựa vào cấu trúc, nội dung, mức độ yêu cầu của chương trình về các bài có TN thực hành để nắm mối liên hệ giữa các TN trong chương điện học. Từ đó, rèn luyện cho HS có kỹ năng TN thực hành để từ đó các em nắm kiến thức vững chắc và sâu hơn.
I.2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu:
	*Mục tiêu: 
	Đối với môn vật lý, đòi hỏi tính tự chủ và tính sáng tạo của học sinh cao, việc thí nghiệm Vật lý đòi hỏi học sinh phải có ý thức cao. Trong quá trình thí nghiệm học sinh phải biết nắm bắt những hiện tượng, từ đó rút ra được những kết luận cần thiết liên quan đến nội dung bài học.
	* Nhiệm vụ:
	Việc dạy học vật lý không những hình thành cho học sinh những tri thức về các hiện tượng vật lý, kỹ năng và kỹ xảo nhất định mà còn phải đảm bảo tối đa sự phát triển trí tuệ, làm cho hoạt động tư duy của học sinh phát triển tích cực, độc lập, sáng tạo. Việc giúp học sinh nắm được cách thức thực hành trong môn vật lý có vai trò rất quan trọng trong dạy học môn Vật lý. Thông qua hoạt động này giúp rèn luyện kỹ năng quan sát, rèn luyện sự phát triển độc lập, sáng tạo của học sinh.
	Nghiên cứu điều tra thực trạng của học sinh trong học vật lý chưa chủ động trong việc tìm hiểu những hiện tượng tự nhiên, chưa nắm được bản chất của các hiện tượng vật lý.
I.3. Đối tượng nghiên cứu:
	Học sinh lớp 9 trường THCS Lê Quý Đôn.
I.4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu:
	Giới hạn trong phần thí nghiệm Vật lý lớp 9 phần điện học.
I.5. Phương pháp nghiên cứu:
a. Phương pháp nghiên cứu tài liệu .
- Tìm đọc những tài liệu có liên quan để làm cơ sở lí luận cho đề tài, giúp trình bài đề tài một cách lôgic, chặt chẽ hơn.
- Nghiên cứu các tài liệu về Vật lí có liên quan đến việc dạy và học ở bậc THCS.
- Nghiên cứu nội dung, chương trình SGK Vật lí 9 phần điện học để nắm được mối liên hệ giữa các TN thực hành ở các bài.
-Nghiên cứu sản phẩm nhằm nắm thực trạng của việc tổ chức làm TN vật lí của HS.
b. Phương pháp điều tra, dự giờ.
- Trò chuyện để tìm hiểu tình hình làm TN của HS để từ đó nắm những khó khăn mà HS gặp phải khi làm TN phần điện học Vật lí 9 nhằm nắm và hiểu được mức độ tiếp thu bài của HS, vì tiết thực hành cho phép ta xác định được khả năng nhận thức, trình độ phát triển trí tuệ, thái độ, hứng thú của HS trong học tập và trong giờ thực hành.
 - Dự giờ các giáo viên trong trường và các trường bạn một số tiết dạy có TN thực hành
c. Phương pháp kiểm tra, đối chiếu.
 - Kiểm tra khảo sát chất lượng học sinh.
 - So sáng, đối chiếu kết quả.
d. Phương pháp quan sát.
- Quan sát hoạt động của HS trong giờ học vật lí có sử dụng thí nghiệm để có thể so sánh với các giờ học Vật lí không có TN.
II. PHẦN NỘI DUNG:
II.1. Cơ sở lý luận:
	Vật lí là cơ sở của nhiều ngành kĩ thuật quan trọng. Sự phát triển của khoa
học Vật lí gắn bó chặt chẽ và có tác động qua lại trực tiếp với sự tiến bộ của khoa
học kĩ thuật. Vì vậy những hiểu biết và nhận thức Vật lí có giá trị to lớn trong đời
sống sản xuất, đặc biệt trong công cuộc công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
Môn Vật lí có vai trò quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu đào tạo nói chung, của trường THCS nói riêng. Môn Vật lí ở trường THCS có những đặc trưng riêng.
Nội dung kiến thức của môn học này luôn luôn gắn liền với sự vật và hiện tượng xảy ra trong cuộc sống hàng ngày. Việc khám phá và tiếp thu kiến thức phụ thuộc rất nhiều vào các thí nghiệm bởi đặc điểm của khoa học Vật lí vốn là khoa học thực nghiệm và nguyên tắc dạy học là nguyên tắc trực quan “học đi đôi với hành” .
Làm các thí nghiệm Vật lí có tác dụng to lớn trong việc phát triển nhận thức
của học sinh, giúp các em quen dần với phương pháp nghiên cứu khoa học, vì qua
đó các em được tập quan sát, đo đạc, được rèn luyện tính cẩn thận, kiên trì, điều đó
rất cần cho việc giáo dục kỹ thuật tổng hợp, chuẩn bị cho học sinh tham gia hoạt
động thực tế. Do được tận mắt, tự tay tháo lắp các dụng cụ, thiết bị và đo lường các
đại lượng, các em có thể nhanh chóng làm quen với những dụng cụ và thiết bị dùng
trong đời sống và sản xuất sau này.
II.2. Thực trạng:
	a. Thuận lợi - khó khăn:
	* Thuận lợi:
	Học sinh chủ yếu là con em người kinh nên việc tiếp thu kiến thức có phần khá tốt. Có đầy đủ SGK và tài liệu học tập, đa số các em ngoan, chịu khó học tập, nhiều em có khả năng nhận thức nhanh, học tập hăng say và thực sự có hứng thú trong việc học tập bộ môn vật lý. Được sự quan tâm giúp đỡ của BGH nhà trường.
	* Khó khăn:
	Trường nằm trên địa bàn thôn có hoàn cảnh kinh tế còn tương đối khó khăn, chưa có đủ cơ sở vật chất để phục vụ tốt cho việc nghiên cứu. Các em học sinh ngoài giờ học còn phải phụ giúp công việc gia đình nên thời gian dành cho việc học là không nhiều.
	b. Thành công - hạn chế:
	Sau khi thực hiện đề tài, đa số các em đã có thể nắm vững hơn về nội dung bài học môn vật lý, nhất là về phần điện. Tuy nhiên, với khả năng của bản thân còn hạn chế, cơ sở vật chất còn thiều thốn, điều kiện của các em học sinh còn chưa đủ nên việc phát huy hết hiệu quả của đề tài là chưa cao.
	c. Mặt mạnh - mặt yếu:
	Là một giáo viên trẻ có đầy nhiệt huyết nên đã cố gắng rất nhiều dù điều kiện còn thiếu thốn, các em học sinh ngoan ngoãn và chịu khó tiếp thu. Nhưng vì còn thiếu kinh nghiệm nên trong quá trình thực hiện đề tài không thể tránh khỏi những thiếu xót.
	d. Các nguyên nhân, yếu tố tác động: 
	- Các em chưa chú tâm nhiều vào việc học, việc tự học ở nhà còn chưa có kết quả cao.
	- Các tiết thực hành còn quá ít nên việc giáo viên hướng dẫn cho các em học sinh không được nhiều và hiệu quả còn thấp, không đủ các thí nghiệm.
e. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra:
 Bài soạn  ... iện giải pháp, biện pháp
Tổ chức học sinh làm thí nghiệm vật lí chủ yếu trong các hoạt động nhóm nhằm rèn luyện cho học sinh kỉ năng sử dụng các dụng cụ đo lường vật lí phổ biến, lắp ráp và tiến hành các thí nghiệm đơn giản, kỉ năng phân tích và xử lí các thông tin, các dữ liệu thu được từ thí nghiệm.
Qua thí nghiệm học sinh có thái độ trung thực, tỉ mỉ, cẩn thận, chính xác, rèn luyện tính độc lập và kỉ năng tư duy sáng tạo cho học sinh trong thực hành thí nghiệm
Làm thí nghiệm là một hoạt động không thể thiếu được trong giờ học Vật lí. Khi làm thí nghiện thành công thì học sinh cơ bản nắm được kiến thức nội dung bài học. Muốn làm thí nghiệm thành công cũng không phải chuyện dễ vì môn Vật lí có nhiều thí nghiệm, mỗi bài học có một kiểu thí nghiệm khác nhau. Do đó, giáo viên phải suy nghĩ xem mình phải chuẩn bị những gì cho bài học này và cho những bài học khác, nhưng tổ chức cho HS làm thí nghiệm ở những bài học khác nhau cũng có những đặc điểm chung:
	d. Mối quan hệ giữa giải pháp và biện pháp:
	Từ những giải pháp đặt ra, giáo viên đưa ra những biện pháp thực hiện sao cho phù hợp với học sinh của mình. Tùy vào từng đối tượng mà ta đưa ra các giải pháp cụ thể.
e. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề:
B1:
+ GV gọi HS cho biết mục đích của TN là gì?
+ HS: Tổ chức HS làm thí nghiệm chủ yếu trong hoạt động nhóm nên GV có thể chia lớp thành 4 à6 nhóm nhỏ (tùy tình hình cơ sở vật chất trường, lớp), có phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng thành viên trong nhóm như phân công nhận và thu dọn lại dụng cụ thí nghiệm của nhóm. Phân công thư ký để ghi kết quả thí nghiệm, phân công chịu trách nhiệm trình bày kết quả thí nghiệm . Trong nhóm, mỗi thành viên thực hiện một công việc cụ thể. 
+ GV phải chuẩn bị sẵn đầy đủ các đồ dùng, dụng cụ cần thiết cho từng thí nghiệm ở các nhóm. Vẽ hình sẵn nếu cần thiết. 
B2. Giới thiệu đồ dùng: GV giới thiệu và cách sử dụng từng đồ dùng có trong thí nghiệm hoặc qua hình vẽ HS nêu được các đồ dùng cần thiết trong thí nghiệm hoặc HS có thể tự đề xuất phương án làm thí nghiệm để giải quyết một vấn đề nào đó.
B3. Giáo viên có thể làm mẫu cho HS xem:Có những thí nghiệm tương đối khó thực hiện, GV có thể làm trước cho HS xem trước các bước hoặc có những đồ dùng các em chưa từng thực hiện thì GV cũng có thể thao tác mẫu cho HS thấy.
B4. Tiến hành thí nghiệm: Các nhóm HS đồng loạt tiến hành thí nghiệm theo sự hướng dẫn của GV. Từng thành viên trong nhóm thực hiện nhiệm vụ của mình như đã phân công trong nhóm. Khi học sinh làm thí nghiệm, giáo viên theo dõi, quan sát kỉ năng, thái độ làm việc của học sinh từng nhóm để từ đó có thể chỉnh đốn, uốn nắn nhằm hình thành các kỉ năng làm thí nghiệm thực hành cho học sinh.
B5. Các nhóm thảo luận, xử lý, trình bày kết quả: Sau khi các nhóm thực hiện thí nghiệm xong (có thể trong quá trình thí nghiệm) các nhóm tự thảo luận, xử lý kết quả của nhóm mình sau đó trình bày kết quả trên bảng phụ của nhóm hoặc phiếu học tập mà GV đã hướng dẫn trước đó.
B6. Lớp thảo luận thống nhất: Sau khi các nhóm trình bày kết quả thí nghiệm GV cho cả lớp cùng thảo luận kết quả từ đó đi đến thống nhất chung về kết quả thhực hiện được.
 *Trong những bài thí nghiệm ở phần Điện học trình tự tiến hành thí nghiệm như trên, tuy nhiên nó cũng có những đặc thù riêng của phần Điện học, cụ thể:
- Ôn lại các kiến thức cũ của các bài trước và các kiến thức quan trọng có liên quan mà HS đã được học ở lớp 7
- Chuẩn bị đầy đủ các linh kiện, đồ dùng (nên soạn riêng từng mâm cho mỗi nhóm)
- Vẽ hình mạch điện lên bảng phụ, yêu cầu HS cho biết công dụng và cách mắc từng bộ phận trong sơ đồ mạch điện 
- Dựa vào mạch điện, hướng dẫn từng bước cho HS mắc mạch điện theo sơ đồ.
- Chú ý đặt các dây dẫn điện phải liên tục để dễ quan sát (hạn chế đan chéo nhau)
- GV nhắc HS trong khi ráp mạch điện phải để khóa K hở. Sau khi nhóm nào báo ráp xong, GV đến kiểm tra àcho HS đóng khóa K.
- Nếu nhóm nào khi đóng khóa K mà thấy kim của các dụng cụ quay ngược lại thì lập tức ngắt khóa k và kiểm tra, đổi cực ở hai chốt của dụng cụ.
- HS biết đọc các số chỉ thị trên mặt đồng hồ đo, giá trị một khoảng chia ( đối với những loại vôn kế hoặc ampe kế có 2 thang đo thì phải đọc thang trên hay thang dưới)
- GV phải biết cần cho HS mắc vôn kế và ampe kế với thang đo như thế nào để không hư dụng cụ.
- Nên theo dõi thí nghiệm ở các nhóm để có thể giúp các em thực hành đúng động tác và nhất là đọc đúng số chỉ của các dụng cụ đo.
- Cần bố trí thêm một bộ dụng cụ thí nghiệm để phòng có các dụng cụ hư của các nhóm .
- Riêng các tiết thực hành thì học sinh có thêm nhiệm vụ phải hoàn thành mẫu báo cáo trong sách giáo khoa.
* Đo lường và thu thập dữ liệu
Sau khi thực hiện các phương pháp để rèn luyện cho học sinh các kỹ năng làm thí nghiệm Vật lí trong phần điện học đã đem lại kết quả khả quan hơn so với kết quả khi chưa sử dụng. Đồng thời kể từ khi áp dụng vào các bài có thí nghiệm thực hành thì tôi nhận thấy một số điểm sau:
+ Kỹ năng sắp xếp, bố trí các thí nghiệm có hệ thống và tiến bộ hơn trước 
+ Kỹ năng làm các thí nghiệm thực hành của học sinh rất nhanh nhẹn, không còn lúng túng trong khi làm thí nghiệm, phần lớn các thành viên trong nhóm đều tham gia làm việc.
+ Học sinh nắm các kiến thức một cách sâu và vững chắc hơn.
+Học sinh cảm thấy yêu thích bộ môn hơn, nhất là các bài học có thí nghiệm, vì các em có niềm tin vào các kiến thức Vật lí.
+ Học sinh biết cách hợp tác trong học tập.
* Kết quả cụ thể:
Sau đây là bảng kết quả ở các lớp 9A, 9B, 9C, 9D ở trường THCS Lê Quý Đôn qua các thời điểm khác nhau là:
Thời điểm kiểm tra
Tổng số
Trên trung bình
Dưới trung bình
Tổng số
%
Tổng số
%
Khảo sát chất lượng đầu năm
115
90
78,26
25
21.74
Kiểm tra lần 1
115
100
86,95
15
13,05
Kiểm tra lần 2
115
105
91,3
10
8,7
Kiểm tra lần 2
156
144
92,3
12
7,7
Cho thấy kết quả có phần tiến bộ hơn rất nhiều sau khi thực hành thí nghiệm. một số em có tiến bộ rõ nét trong học tập do cảm thấy thích học hơn. Nhiều em còn tiến bộ đối với các môn có thực hành thí nghiệm. nhưng dù sau cũng cần lưu ý khi giáo viên cho học sinh thực hành thí nghiệm.
Việc làm thí nghiệm về mạch điện nếu sử dụng nguồn điện là pin thì khá an tòan cho HS. Tuy nhiên nếu làm thí nghiệm với nguồn điện là biến thế chỉnh lưu cắm vào mạch điện 220V thì trước khi làm thí nghiệm GV cần kiểm tra để bảo đảm cách điện giữa cuộn sơ cấp (cắm vào điện 220V) với cuộn thứ cấp ở mạch điện HS sử dụng.
Trên bàn GV cần có cầu dao điều khiển điện cho cả lớp, ở cầu dao này dùng dây chì loại nhỏ để dễ ngắt mạch khi có sự cố. Sau khi kiểm tra việc lắp mạch điện của HS xong GV mới đóng mạch cho sử dụng. Khi có sự cố giáo viên có thể ngắt mạch điện ngay. 
Việc cho học sinh làm thí nghiệm rất quan trọng, nên giáo viên phải tổ chức cho học sinh làm đều đặn và thường xuyên, từ đó tạo cho các em thói quen tốt trong khi làm thí nghiệm. Nhất là đối với phần Điện học, nếu các em được thường xuyên làm thí nghiệm thì các em sẽ thành thạo trong cách lắp mạch điện làm cho giáo viên đở vất vả nhiều trong khâu hướng dẫn ở những tiết sau, các em có thói quen về an toàn điện và biết cách khắc phục sự cố nếu có.
Qua việc giảng dạy, dự giờ ở những tiết Vật lý có tổ chức cho HS làm thí nghiệm thì thấy không khí lớp học rất sôi nổi, giúp cho học sinh tiếp thu bài tốt hơn, các em rất say mê trong những thí nghiệm do chính tay mình làm từ đó các kiến thức được khắc sâu hơn vì những kiến thức vật lý thường xuất phát từ những thí nghiệm chứng minh, thí nghiệm thực hành. Tuy nhiên để việc làm thí nghiệm thành công hơn thì giáo viên phải biết tổ chức hợp lý mới có kết quả tốt, phải chọn những dụng cụ sao cho hạn chế rất ít những sai số không cần thiết. 
* Hạn chế:
Chuẩn bị vất vả, điều khiển giờ thực hành phức tạp vì có nhiều học sinh chưa có kỹ năng thực hành thí nghiệm và nếu có ít cũng không đồng đều, nếu điều khiển không khéo giờ thực hành sẽ bị phân tán và phản tác dụng. Mặt khác, trong quá trình tự học của học sinh ở nhà, học sinh nào tự giác tích cực sẽ đạt hiệu quả cao hơn, ngược lại một số học sinh kém, hoạt động chậm hơn luôn bị động và rất dễ dẫn đến chán học. 
III. KẾT LUẬN -KIẾN NGHỊ:
III.1. Kết luận:
Tôi đã rút ra được một số kinh nghiệm cho bản thân về lí luận phương pháp giảng dạy thí nghiệm Vật lí trên cơ sở đó có thể vận dụng vào công việc giảng dạy của mình.
Kinh nghiệm nay đã giúp tôi có kiến thức cơ bản về cách thức tổ chức và tiến hành một thí nghiệm Vật lí – dù là thí nghiệm biểu diễn hay thí nghiệm thực hành, từ đó góp phần nâng cao chất lượng học cho học sinh.
Để đạt chất lượng tốt trong giảng dạy và nhất là để học sinh nắm bắt các kiến thức vững chắc hơn, có kỹ năng vận dụng các kiến thức, các thí nghiệm vào thực tiễn tốt hơn thì mỗi trường cần có phòng thí nghiệm cho bộ môn. Vì có như vậy thì giáo viên và cả học sinh đỡ vất vả hơn trong quá trình bố trí , làm thí nghiệm, kết quả được chính xác hơn.
Bên cạnh những kết quả đạt được đó, còn bộc lộ một số hạn chế như nội dung chưa thật đầy đủ, trình bày chưa thật khoa học... Bởi vậy tôi luôn đặt cho mình nhiệm vụ không ngừng học hỏi, nghiên cứu để hoàn thành tốt đẹp mục đích đã đề ra. 
III.2. Kiến nghị:
- Đối với giáo viên: Không ngừng học tập, tự bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ; cần quan tâm giúp đỡ hơn nữa học sinh yếu kém; lựa chọn các nhóm trưởng có uy tín, học khá, giỏi để giúp đỡ hoc sinh yếu.
- Đối với các cấp lãnh đạo: để tiết thực hành thí nghiệm thành công cần phải trang bị đầy đủ các trang thiết bị, chính xác. Do đó cần có sự chỉ đạo kịp thời về cơ sở vật chất và kinh phí để giáo viên thực hiện có hiệu quả hơn.
	 Buôn Triết, ngày 14 tháng 4 năm 2017
	 Người thực hiện
	 Hoàng Vĩnh Lộc
TÀI LIỆU THAM KHẢO
-Sách giáo khoa vật lí 9, NXB giáo dục.
-Sách giáo viên vật lí 9, NXB giáo dục.
-Tài liệu hướng dẫn, sử dụng bộ dụng cụ thí nghiệm thực hành vật lí 9 của Bộ giáo dục và đào tạo.
- Chuẩn kiến thức kỹ năng môn vật lí THCS – NXB Giáo dục.
- Phương pháp dạy học vật lí – NXB Giáo dục.
- Nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng.

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_su_can_thiet_cua_thuc_hanh_vat_ly_tron.doc