Sáng kiến kinh nghiệm - Một số kinh nghiệm trong công tác hướng dẫn trẻ mầm non kể chuyện sáng tạo
4. Dạy trẻ cách sử dụng nhân vật phù hợp với ngôn ngữ lời kể sáng tạo.
Bên cạnh một môi trường hoạt động với đầy đủ các loại đồ dùng trực quan đa dạng phong phú, thu hút sự hứng thú tham gia kể chuyện sáng tạo của trẻ thì chúng ta còn phải dạy trẻ cách sử dụng nhân vật phù hợp với ngôn ngữ lời kể sáng tạo.
Khi dạy trẻ sáng tạo tôi đã chuẩn bị cho trẻ những tập truyện tranh sưu tầm bằng cách đọc kể cho trẻ nghe ở các giờ đón, giờ trả trẻ và giờ chơi hàng ngày. Đây là hình thức cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học, là cơ sở cho trẻ có kiến thức vững vàng khi thực hiện kể chuyện sáng tạo. Qua cách làm quen như vậy trẻ biết đánh giá, nhận xét về đặc điểm tính cách của các nhân vật thông qua ngôn ngữ nói của mình.
Ví dụ: Gà cón xinh đẹp đáng yêu, sói già gian ác, bà tiên ông bụt thì tốt bụng còn phù thuỷ thì độc ác.
Bên cạnh đó tôi còn định hướng cho trẻ quan sát các tranh chuyện , cho trẻ xem qua đĩa hình các câu chuyện. Đồng thời kết hợp tri giác với đàm thoại giữa cô và trẻ, giúp trẻ nhận xét đánh giá nội dung truyện một cách chính xác và nói lên ý tưởng của mình qua sự nhận thức.
Tôi dạy trẻ kể chuyện theo từng nhóm, theo thời gian thực hiện một tuần hoặc hai tuần, kết hợp lồng ghép các môn học khác, các trò chơi để củng cố và khắc sâu kiến thức, mở rộng vốn hiểu biết về thế giới xung quanhcho trẻ.
Sau đây là một số cách dạy trẻ sử dụng đồ dùng trực quan.
- Dạy trẻ sử dụng rối tay: dạy trẻ sử dụng từng con một, kết hợp với lời nói, ngôn ngữ biểu cảm cùng với cách diễn rối qua cử động các con rối đi lại.
- Dạy trẻ ghép tranh kể chuyện: chọn những tranh mà trẻ thích ghép thành một dải câu chuyện sau đó kể từng tranh kết hợp với lời nói chỉ dẫn thông qua các nhân vật trong tranh.
- Dạy trẻ ghép các nhân vật kể chuyện: chọn những nhân vật mà trẻ thích, sau đó ghép các nhân vật với nhau tạo thành một câu chuyện theo ý tưởng của trẻ.
- Dạy trẻ kể chuyện bằng sa bàn: chọn những nhân vật mà trẻ thích kết hợp di chuyển các nhân vật đó trên sa bàn. Nói đến đâu đưa nhân vật ra đến đó, lời kể đi theo nhân vật sử dụng.
Qua cách dạy trẻ tôi đã tiến hành tổ chức một giờ hoạt động có chủ đích kể chuyện sáng tạo, chủ điểm thế giới động vật như sau:
Bước 1: Hát bài “Gà trống mèo con và cún con”. Hỏi trẻ trong bài hát có những con vật gì.
Bước 2: Nghe cô kể mẫu chuyện sáng tạo của cô, cô sử dụng rối kể 1 lần. Đàm thoại với trẻ về câu chuyện của cô (tên nhân vật, đặc điểm nhân vật, đặt tên cho câu chuyện).
Bước 3: Trẻ đi chọn đồ dung trực quan mà trẻ yêu thích. Cô gợi mở ý tưởng cho trẻ bằng cách mượn một con vật mà trẻ đã chọn và kể ngắn gọn vài câu để trẻ biết cách kể chuyện sáng tạo.
Bước 4: Trẻ kể chuyện sáng tạo theo nhóm, cá nhân. Cô cho trẻ đánh giá và nhận xét câu chuyện của bạn kể. Theo dõi cách sử dụng đồ dung trực quan của trẻ để cô góp ý nhận xét.
Qua cách làm này, bước đầu tôi đã thành công trong việc thực hiện dạy trẻ kể chuyện sáng tạo, giúp trẻ linh hoạt sử dụng đồ dung trực quan kết hợp với ngôn ngữ nói rõ ràng mạch lạc, có kỹ năng tổng hợp về “mắt nhìn, miệng nói, tai nghe, tay sử dụng”.
Sau đây là một số câu chuyện của trẻ khi thực hiện kể chuyện sáng tạo.
Câu chuyện “Con lợn nhựa của tôi” tác giả cháu Hoàng Tuấn với đồ dùng là một con lợn nhựa được cháu thể hiện như sau:
+ Chủ nhật tớ được về quê thăm bà. Ở quê bà tớ nuôi rất nhiều lợn, các con lợn rất to và ăn rất nhiều rau với cám. Thấy tớ thích con lợn đó, bà tớ liền mua cho tơ một con lợn, nhưng đó là con lợn nhựa. Con lợn nhựa của tớ nó chẳng ăn được gì mà nó chỉ giúp tớ cất tiền. Đến tết ai mừng tuổi là tớ cho vào con lợn nhựa này để gửi mẹ mua quần áo. Tớ rất yêu quý co lợ nhựa này của tớ.
- Câu chuyện “Bác Voi tốt bụng” của cháu Thảo My, Khánh Như và Yến Nhi. Đồ dung là con gà, vịt, voi từ sản phẩm vẽ của trẻ bồi bìa cứng và làm rối tay, câu chuyện được các bé thể hiện như sau:
+ Bạn vịt bầu ơi có đi chơi với tớ và gà trống không.
+ Ừ hôm nay trời đẹp chúng mình cùng đi chơi nhé.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm - Một số kinh nghiệm trong công tác hướng dẫn trẻ mầm non kể chuyện sáng tạo
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI: Một số kinh nghiệm trong công tác hướng dẫn trẻ mầm non kể chuyện sáng tạo A. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lý do chọn đề tài: Chúng ta đang sống trong những năm của thế kỷ XXI – thế kỷ của khoa học công nghệ hiện đại. Việc giáo dục con người hoàn thiện để sánh kịp thời đại luôn là vấn đề cấp thiết không chỉ của riêng các nhà giáo dục mà của toàn xã hội. Để đạt được sự hoàn thiện đó chúng ta không thể bỏ qua “thời thơ ấu” của mỗi con người. Trẻ em chính là trang sách mở đầu của mỗi cuộc đời, là nơi đặt những viên gạch đầu tiên xây dựng nền móng nhân cách của con người. Một trong những yếu tố quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển toàn diện nhân cách trẻ đó chính là ngôn ngữ. Ngôn ngữ chính là yếu tố không thể thiếu đối với bất cứ ai nhất là đối với trẻ thơ. Trong công tác giáo dục thế hệ mầm non cho đất nước, chúng ta càng thấy rõ vai trò của ngôn ngữ đối với việc giáo dục trẻ. Ngôn ngữ góp phần đào tạo các cháu trở thành con người phát triển toàn diện. Bởi ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người. Vậy làm thế nào để phát triển ngôn ngữ cho trẻ một cách toàn diện, là một giáo viên mầm non tôi không khỏi trăn trở băn khoăn về vấn đề này, làm thế nào để trẻ khi rời khỏi trường mầm non trẻ có một vốn ngôn ngữ phong phú, trẻ có thể mạnh dạn giao tiếp với mọi người xung quanh. Đối với trẻ mầm non, trẻ rất nhạy cảm với nghệ thuật ngôn từ. Âm điệu, hình tượng của các bài hát ru, đồng dao, ca dao, dân ca sớm đi vào tâm hồn tuổi thơ. Những câu chuyện cổ tích, thần thoại đặc biệt hấp dẫn trẻ. Chính vì vậy cho trẻ tiếp xúc với văn học và đặc biệt là hoạt động dạy trẻ kể chuyện sáng tạo là con đường phát triển ngôn ngữ cho trẻ tốt nhất, hiệu quả nhất. Thông qua việc trẻ kể chuyện sáng tạo giúp trẻ phát triển năng lực tư duy, óc tưởng tượng sáng tạo, biết yêu quý cái đẹp, hướng tới cái đẹp. Khi trẻ kể chuyện, ngôn ngữ của trẻ phát triển, trẻ phát âm rõ ràng mạch lạc, vốn từ phong phú. Trẻ biết trình bày ý kiến, suy nghĩ, kể về một sự vật hay sự kiện nào đóbằng chính ngôn ngữ của trẻ. Đó là lý do tôi chọn đề tài: “Một số kinh nghiệm trong công tác hướng dẫn trẻ kể chuyện sáng tạo” 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. 2.1. Đối tượng nghiên cứu. “Một số kinh nghiệm trong công tác hướng dẫn trẻ kể chuyện sáng tạo” 2.2. Phạm vi nghiên cứu: Trẻ mẫu giáo ở trường mầm non. 3. Mục tiêu nghiên cứu. Với mục đích để nâng cao chất lượng phát triển ngôn ngữ cho trẻ ở độ tuổi mầm non với mục đích giáo dục và trình độ nhận thức của trẻ. - Nghiên cứu những vấn đề lý luận về các biện pháp hướng dẫn trẻ kể chuyện sáng tạo - Đề ra một số giải pháp cụ thể để nâng cao chất lượng tổ chức các hoạt động dạy hướng dẫn trẻ kể chuyện sáng tạo - Đánh giá kết quả và có ý kiến đề nghị để nâng cao chất lượng trong công tác hướng dẫn trẻ kể chuyện sáng tạo. 4. Giả thiết khoa học của đề tài nghiên cứu Trong quá trình cho trẻ tiếp xúc với các câu chuyện, bằng tài năng sư phạm cùng với nghệ thuật đọc và kể, giáo viên sẽ hướng trẻ vào những vẽ đẹp nội dung và nghệ thuật tác phẩm, gây ấn tượng đầu tiên cho trẻ về hình tượng nghệ thuật và nội dung của tác phẩm. Đồng thời qua các câu chuyện trẻ có thể cảm thụ được cái hay, cái đẹp về cuộc sống con người và môi trường xung quanh một cách gần gũi, thân thiện. Trẻ mẫu giáo có nhu cầu và năng lực hoạt động nghệ thuật sáng tạo. Nếu giáo viên nắm được khả năng này của trẻ mà tìm ra những biện pháp thiết thực trong quá trình dạy trẻ thì sẽ kích thích trẻ kể lại chuyện một cách sáng tạo, phát huy khả năng tự hoạt động văn học nghệ thuật và trí tưởng tượng phong phú ở trẻ. 5. Phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp nghiên cứu tài liệu. - Phương pháp điều tra. - Phương pháp quan sát. - Phương pháp thực nghiệm. - Phương pháp đánh giá kết quả. 6. Đóng góp mới của đề tài nghiên cứu. Với những phương pháp mà tôi đã áp dụng khá thành công, tôi mong muốn rằng những phương pháp này sẽ được bạn bè, đồng nghiệp tham khảo, vận dụng và áp dụng vào thực tế của mình góp phần vào việc hướng dẫn trẻ hoạt động một cách tích cực hơn và đạt được hiệu quả hơn trong việc hướng dẫn trẻ kể chuyện sáng tạo. B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. Cơ sở khoa học và thực trạng vấn đề: 1. Cơ sở khoa học: 1.1 Cơ sở lý luận: Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ là một quá trình từ thấp đến cao với các giai đoạn mang những đặc trưng khác nhau tuỳ thuộc vào độ tuổi của trẻ. Trẻ ở lứa tuổi mầm non sự phát triển ngôn ngữ mạch lạc chịu ảnh hưởng lớn của việc tích cực hoá vốn từ, ngôn ngữ cũa trẻ đã trở nên được mở rộng hơn, có trật tự hơn, mặc dù cấu trúc còn chưa hoàn thiện. Khả năng nói trình bày ý nghĩa, hiểu ngôn ngữ hoàn cảnh của trẻ cũng đã bắt đầu phát triển. Bằng các hình tượng văn học mở ra cho trẻ cuộc sống với xã hội và thiên nhiên, các mối quan hệ qua lại của con người. Những hình tượng đó giúp trẻ nhận thức được tính rõ ràng, chính xác của từ ngữ trong tác phẩm văn học. Với nhiệm vụ khơi dậy ở trẻ tình yêu đối với từ ngữ nghệ thuật thông qua cách đọc kể diễn cảm, cao hơn nữa là biết dùng ngôn ngữ của mình để kể chuyện sáng tạo. Đây là một nhiệm vụ rất phức tạp, yêu cầu khi kể chuyện sáng tạo trẻ phải tự nghĩ ra một nội dung câu chuyện, tạo ra cấu trúc logic được thể hiện trong hình nói tương ứng (lời nói kết hợp với sử dụng đồ dung trực quan). Yêu cầu này đòi hỏi trẻ phải có vốn từ phong phú, các kỹ năng tổng hợp, kỹ năng truyền đạt ý nghĩ của mình một cách chính xác, tập trung chú ý và nói biểu cảm. Những kỹ năng này trẻ lĩnh hội được trong quá trình nhận thức có hệ thống bằng con đường luyện tập thường xuyên hàng ngày. Từ những cơ sở lý luận trên tôi đã đi sâu nghiên cứu đề tài: “Một số kinh nghiệm trong công tác hướng dẫn kể chuyện sáng tạo” nhằm đáp ứng nhu cầu nhận thức của trẻ mầm non hiện nay. 1.2. Cơ sở thực tiễn. Đối với trẻ ở mầm non thì ngôn ngữ đóng vai trò hết sức quan trọng. Nhưng điều kiện để trẻ được thực hành, trải nghiệm và phát triển ngôn ngữ chưa phong phú chủ yếu là trên lớp chưa có điều kiện để cho trẻ tham quan, dã ngoại, để thu thập thêm các thông tin, hình ảnh để trẻ hiểu, ghi nhớ và sáng tác ra các bài thơ, câu chuyện nên chưa phát triển hết khả năng của trẻ. Đặc biệt một số trẻ phát âm chưa rõ ràng còn nói lay, nói ngọng, vốn từ còn nghèo nàn chủ yếu là phát âm theo cô, sự sáng tạo ra các tác phẩm chưa có.... Do vậy để bồi dưỡng va phát triển ngôn ngữ của trẻ chúng ta cần tạo môi trường, cơ hội cho trẻ được tri giác tìm kiếm, khám phá thế giới xung quanh; rèn luyện phát âm chuẩn, chính xác, khả năng tư duy sáng tạo cho trẻ. Để tạo được sự linh hoạt trong quá trình đó cần tăng cường cho trẻ luyện tập các kỹ năng nói, phát âm, giọng đọc kể rõ ràng, cử chỉ, điệu bộ phù hợp. Tập cho trẻ biết tự điều chỉnh nhịp độ, cường độ, giọng đọc, kể phù hợp với nhân vật, hoàn cảnh. Trong những năm tháng dạy trẻ va được tiếp xúc với trẻ ở nhiều độ tuổi. Phạm vi tiếp xúc của trẻ còn hạn chế dẫn đến sự hiểu biết của trẻ còn nghèo nàn, cuộc sống của trẻ còn nhiều điều mới lạ mà việc giúp cho trẻ kể lại chuyện cung cấp cho trẻ những nội dung kiến thức đơn giản trong trường mầm non việc dạy trẻ đọc thơ, kể lại chuyện đã được thực hiện nhưng chưa sâu sắc. Vì trẻ mới đọc, kể lại như thuộc một bài thơ, câu truyện mà chưa có sự sáng tạo trong khi kể. Vậy nó đòi hỏi sự nỗ lực hoạt động sáng tạo của cô giáo. Trước hết cô phải là người kể sáng tạo dựa trên những cơ sở khoa học, những biện pháp cụ thể để dạy trẻ kể lại truyện một cách sáng tạo. Ngoài ra trong các giờ hoạt động tôi sử dụng rất nhiều hình thức khác nhau để gây hứng thú giúp trẻ nhanh chóng hiểu nội dung chuyện, nhớ chuyện, thuộc chuyện và đọc kể diễn cảm kể chuyện sáng tạo, đóng kịch. trong hoạt động này hình thức sử dụng đồ dùng trực quan rất có hiệu quả. Đồ dùng trực quan có thể là tranh ảnh, mô hình, rối que, rối bóng, trang phục, sân khấu Vậy để nâng cao chất lượng giáo dục trong việc dạy trẻ kể chuyện sáng tạo nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ một cách toàn diện. Tôi muốn đưa ra một số biện pháp để dạy trẻ: “Một số kinh nghiệm trong công tác hướng dẫn trẻ kẻ chuyện sáng tạo” đạt kết quả cao. 2. Thực trạng việc tổ chức thực hiện 2.1. Tình hình khảo sát điều tra thực trạng: * Khảo sát chất lượng trẻ đầu năm cho thấy kết quả như sau: TT Tổng số trẻ khảo sát Trẻ phát âm rõ ràng mạch lạc Trẻ biết kể chuyện Trẻ biết kể chuyện sáng tạo 1 37 Số trẻ đạt Tỉ lệ Số trẻ đạt Tỉ lệ Số trẻ đạt Tỉ lệ 25 67% 10 27% 5 13% Qua khảo sát chất lượng đầu năm cho thấy khả năng phát triển ngôn ngữ của trẻ còn thấp, trẻ nói chưa rõ ràng, số trẻ biết kể chuyện đọc thơ còn hạn chế, đặc biệt là số trẻ biết kể chuyện sáng tạo còn chiếm tỉ lệ quá thấp. Khi nắm bắt được tâm lý của trẻ, tôi tiến hành nghiên cứu tài liệu tự tìm tòi cho mình nhiều giải pháp khác nhau để đưa chất lượng giảng dạy tốt hơn. 2.2. Thuận lợi: Được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của phòng GD - ĐT huyện nhà, cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương cùng với ban giám hiệu nhà trường năng động, sáng tạo có tinh thần trách nhiệm cao, có đội ngũ giáo viên nhiệt tình năng nổ, yêu mến trẻ, có tinh thần đoàn kết và giúp đỡ nhau trong quá trình nghiên cứu. Phần đa các bậc phụ huynh tạo điều kiện cho trẻ đến trường đúng độ tuổi. Cơ sở vật chất nhà trường ngày càng đầy đủ hơn nên chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ ngày càng được nâng lên và nhận được nhiều sự quan tâm hơn của các cấp, các ngành và của các bậc phụ huynh. Trường có đội ngũ giáo viên có trình độ chuyên môn đạt chuẩn và trên chuẩn, yêu nghề, mến trẻ, có nhiều giáo viên tham gia giáo viên giỏi các cấp. Nhà trường mua sắm trang thiết bị, đồ dùng dạy học tối thiểu đầy đủ nên thuận lợi cho việc dạy va học cũng như thuận lợi cho quá trình nghiên cứu đề tài. 2.2 Mặt hạn chế và nguyên nhân: Trường chúng tôi nằm ở khu vực nông thôn, ®a sè lµ con em gia đình n«ng nghiÖp nªn đời sống của nhân dân cũng gặp nhiều khó khăn, một số gia đình chưa thực sự quan tâm đến việc học hành của con cái vì thế việc phối hợp giữa giáo viên và phụ huynh có phần hạn chế nên ảnh hưởng đến chất lượng dạy ... hoặc nhóm. Ví dụ: Trong truyện “Dê con nhanh trí” cho tổ 1 làm dê trắng, tổ 2 làm dê đen, tổ 3 làm cho sói để trẻ tự thể hiện hành động, điệu bộ của nhân vật cho quen và thành thạo. Sau đó phân vai cho từng trẻ theo vai của các nhân vật trong truyện và cho trẻ nhắc lại lời thoại của nhân vật trong truyện mà trẻ sẽ đóng. Lúc này cô giáo là người dẫn truyện và trẻ tự diễn theo nội dung câu truyện. Khi trẻ diễn xong lên cho trẻ tự nhận xét về vai diễn của mình, của bạn, từ đó trẻ xác định được thái độ của trẻ đối với nhân vật trong truyện là yêu hay ghét. Trò chơi đóng kịch thực sự giúp trẻ cảm nhận tác phẩm văn học một cách sâu sắc và để đạt được điều đó thì việc trang trí sân khấu và hoá trang cho trẻ rất quan trong, với câu truyện “3 chú Lợn nhỏ” tôi làm sân khấu có màn che, rồi trang trí cảnh phù hợp với câu truyện. Bên cạnh việc làm mô hình sân khấu thì việc hoá trang cho trẻ đóng kịch cũng rất cần thiết. Với nhân vật “3 chú Lợn” tôi cho trẻ mặc mặt nạ hình con lợn, bao tay và giầy hình chân con lợn và áo quần màu sắc khác nhau phù hợp với tính cách của từng nhân vật. Việc hoá trang và bố trí sân khấu phù hợp, trang phục đẹp sẽ giúp trẻ tự tin khi nhập vai tạo cho trẻ hứng thú hơn với từng vở diễn. Trong hoạt động chung trẻ có thể chưa cảm nhận hết được các giá trị về mặt ngôn ngữ, tình cảm của các tác phẩm thì đến giờ ho¹t động góc cô giáo cho trẻ tham gia vào góc chơi “Bé yêu văn học”. Tại góc chơi này cô cho trẻ được xem, đọc hay lằng nghe các câu chuyện bài thơ trẻ vừa được học để trẻ có thể ghi nhớ sâu hơn, để trẻ một lần nữa lại tiếp tục được cảm nhận những c¸i hay cái đẹp trong tác phẩm. 7. Tuyên truyền kết hợp với phụ huynh. Như chúng ta đã thấy môi trường tiếp xúc của trẻ chủ yếu là gia đình và nhà trường. Chính vì vậy việc kết hợp giữa gia đình và nhà trường là một biện pháp không thể thiếu. Phụ huynh chính là nhân tố quết định trong việc tạo nguồn nhiên liệu của góc văn học để phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Trong cuộc họp phụ huynh đầu năm tôi nêu tầm quan trọng của lĩnh vực phát triển ngôn ngữ cho trẻ, đặc biệt là thong qua hoạt động kể chuyện sáng tạo. Hàng tháng tuyên truyền với phụ huynh qua các biểu bảng nêu lên nội dung về chủ điểm, về các câu chuyện sáng tạo của cô và trẻ. Qua đó phụ huynh thấy được ngôn ngữ của trẻ phát triển như thế nào và có biện pháp kích thích sự phát triển ngôn ngữ cho trẻ tại gia đình. Ví dụ: Cô trao đổi với phụ huynh về những câu chuyện sáng tạo trẻ đã kể, yêu cầu phụ huynh về nhà cho trẻ kể lại câu chuyện đó hoặc kích thích trẻ kể các câu chuyện khác. Như vậy ngôn ngữ của trẻ được phát triển một cách phong phú và đa dạng. Huy động phụ huynh đóng góp tiền ủng hộ tạo góc văn học hoặc thu nhập những nguyên vật liệu sẵn có, dễ tìm như báo hoạ mi, vải vụn, len vụn, các vỏ hộp, mút xốp kết hợp trong và ngoài giờ đón trả trẻ để trao đổi với phụ huynh. Có thể nói công tác tuyên truyền với phụ huynh là một việc làm rất quan trọng trong việc dạy trẻ kể chuyện sáng tạo để phát triển ngôn ngữ cho trẻ. III. Kết quả: Sau khi thực hiện các biện pháp tôi đã thu được một số kết quả sau: 1. Về bản thân: - Tôi thấy mình đã nâng cao được phong cách nghệ thuật lên lớp,giọng kể được trau dồi diễn cảm, thu hút trẻ hứng thú tham gia vào tiết học. - Tôi đã rút ra được nhiều kinh nghiệm qua cách dạy trẻ kể chuyện sáng tạo, sưu tầm được nhiều truyện tranh, học thuộc nhiều truyện ngoài chương trình. - Tạo được môi trường cho trẻ hoạt động tốt ở các góc, đặc biệt là góc văn học. - Tôi đã tận dụng các nguyên vật liệu sẵn có, dễ tìm để tạo ra nhiều loại rối phong phú, đa dạng, sử dụng có hiệu quả trong việc dạy trẻ kể chuyện sáng tạo. - Các tiết dạy kể chuyện sáng tạo tôi tham gia lên chuyên đề của trường và các hội thi do quận tổ chức tôi đều được đánh giá cao. 2. Về trẻ: * Khảo sát chất lượng trẻ cuối năm học cho thấy kết quả: TT Tổng số trẻ Trẻ phát âm rõ ràng mạch lạc Trẻ biết kể chuyện Trẻ biết kể chuyện sáng tạo 1 37 Số trẻ đạt Tỉ lệ Số trẻ đạt Tỉ lệ Số trẻ đạt Tỉ lệ 35 94% 37 100% 25 67% 3. Về đồ dùng trực quan; - Xây dựng một góc tuyên truyền về các câu chuyện sáng tạo của cô của trẻ đa dạng, phong phú. - Làm 30 bộ truyện tranh sáng tạo. - Sưu tầm rất nhiều tranh ảnh theo từng chủ điểm cho trẻ kể chuyện. - Làm 15 con rối dẹt, 30 con rối tay cho trẻ hoạt động ở mỗi chủ điểm. - Làm 20 con rối tay cho cô hoạt động. - Có một bảng gài và một bảng dính cho trẻ ghép tranh kể chuyện sáng tạo. - Một sân khấu rối, sa bàn cho cô và trẻ kể chuyện sáng tạo. 4. Về phụ huynh: - Nhận thức rõ được tầm quan trọng của việc dạy trẻ kể chuyện sáng tạo để phát triện ngôn ngữ cho trẻ. - Phụ huynh đã phần nào hiểu được tầm quan trọng việc học của con ở trường, họ đã thu gom những phế liệu, sưu tầm tranh ảnh, báo hoạ mi để cho giáo viên làm đồ dùng đồ chơi phù hợp víi tõng chủ đÒ. IV – Bài học kinh nghiệm: Qua quá trình nghiên cứu và thực hiện các biện pháp trên vào việc dạy trẻ kể chuyện sáng tạo để phát triển ngôn ngữ cho trẻ tôi đã rút ra nhưng bài học kinh nghiệm sau: - Cô giáo phải đi sâu nghiên cứu để tạo ra được môi trường tốt cho trẻ hoạt động một cách tích cực nhất, biết tao cảm xúc cho trẻ khi kể chuyện sáng tạo. - Thường xuyên trò chuyện với trẻ, khơi gợi trẻ đặt tên cho nội dung vừa trò chuyện hoặc tóm tắt ngắn gọn những điều vừa trò chuyện. - Khuyến khích trẻ nói những ý nghĩ của trẻ qua nội dung hay chủ điểm nào đó nhằm giúp trẻ luyện cách trình bày, diễn đạt ý. - Cho trẻ tham quan, hướng dẫn từ quan sát sự vật, hiện tượng nhằm mở rộng vốn hiểu biết cho trẻ; kết hợp đàm thoại để trẻ hiểu sâu bản chất của sự vật, hiện tượng và nói lên nhận xét của mình. - Mở rộng vốn từ cho trẻ và khuyến khích trẻ sử dụng vốn từ trẻ học được trong các hoạt động khác nhau, đặc biệt qua các trò chơi ngôn ngữ, trò chuyện, đàm thoại giưa cô với trẻ, trẻ với trẻ. C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 1. KẾT LUẬN Việc hướng dẫn trẻ kể chuyện sáng tạo nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ là một việc làm thiết thực nhất trong chương trình đổi mới hiện nay, đòi hỏi cô giáo phải có sự sáng tạo linh hoạt khi dạy trẻ, phải có sự kiên trì rèn luyện giữa cô và trẻ thì sẽ đem lại kết quả cao. Từ những kết quả trên tôi rút ra bài học kinh nghiệm khi hướng dẫn trẻ kể chuyện sáng tạo: - Giáo viên cần nâng cao trình độ ngôn ngữ của chính bản thân mình, coi ngôn ngữ là một phương tiện giáo dục chủ đạo. - Giáo viên cần tham gia các lớp học như: đại học tại chức, bồi dưỡng thường xuyên, tập huấn về chuyên ngành, học hỏi đồng nghiệp để có kiến thức hiểu biết về chuyên môn, kịp thời cập nhật các thông tin một cách nhanh chóng. - Giáo viên phải biết luyện giọng đọc, kể diễn cảm kết hợp với ánh mắt cử chỉ phù hợp với nội dung của tác phẩm - Biết lồng ghép các nội dung hợp lý trên các tiết học và hoạt động trong ngày một cách nhẹ nhàng không áp đặt trẻ - Chú ý thường xuyên rèn kỹ năng nghe đọc cho trẻ - Phải biết xử lý tốt các tình huống sư phạm luôn tìm cách tạo tình huống cho trẻ để trẻ có cơ hội bộc lộ năng khiếu sở thích của mình. - Tạo cơ hội để trẻ được sữa sai những điều trẻ chưa thực hiện được. - Giáo viên phải thực sự yêu trẻ và nhẫn nại, có tâm huyết với nghề nghiệp, biết nắm bắt được tình hình tâm sinh lý của trẻ. - Sưu tầm tranh ảnh có nội dung phù hợp, trao đổi kiến thức tự học qua sách báo, internet, qua giáo viên đồng nghiệp, giáo viên đang trực tiếp dạy trường lớp mình đang theo học. - Giáo viên làm những đồ dùng phế thải có ở góc thiên nhiên tạo gần gũi, hấp dẫn để gây hứng thú cho trẻ. - Phối hợp với phụ huynh để động viên giáo dục trẻ thực hiện tốt yêu cầu cần đạt của giáo viên. - Thường xuyên rèn kỹ năng nghe đọc cho trẻ. - Khuyến khích trẻ mạnh dạn tự tin nói những ý nghĩ của mình qua nội dung của câu chuyện nào đó nhằm giúp trẻ luyện cách trình bày diễn đạt lời nói mạnh lạc rõ ràng. - Cho trẻ tham quan hướng dẫn từ quan sát sự vật hiện tượng nhằm mở rộng vốn hiểu biết cho trẻ kết hợp đàm thoại để trẻ hiểu sâu bản chất của sự vật hiện tượng và nói lên nhận xét của mình. - Mở rộng vốn từ cho trẻ và khuyến khích trẻ sử dụng vốn từ trẻ học được qua các hoạt động khác nhau đặc biệt qua các bài thơ câu chuyện, đàm thoại giữa cô với trẻ và trẻ với trẻ. II. KIẾN NGHỊ 1. Đối với Nhà trường: - Cần tạo điều kiện cho giáo viên tham quan học tập ở các đơn vị bạn để trao đổi, học hỏi kinh nghiệm. - Tổ chức các cuộc triển lãm tranh, làm đồ dùng đồ chơi tại trường cho trẻ cùng tham gia. 2. Đối với Phòng giáo dục: - Cần tăng cường hơn nữa về các buổi tập huấn, bồi dưỡng kiến thức trong việc thực hiện bộ môn văn học nói chung và về kỹ năng kể chuyện diễn cảm, sáng tạo cho giáo viên Trên đây là sáng kiến kinh nghiệm với đề tài “Một số kinh nghiệm trong công tác hướng dẫn trẻ kể chuyện sáng tạo” rất mong được sự đóng góp ý kiến của các cấp, các ngành và bạn đọc để giúp tôi cũng như các giáo viên mầm non có cách thức phương pháp dạy trẻ vẽ theo đề tài một cách tốt nhất. Tôi xin chân thành cảm ơn./. PHỤ LỤC MỤC LỤC TRANG Đặt vấn đề 1 1. Lý do chọn đề tài 1 2. Đối tượng và pạm vi nghiên cứu 2 3. Mục tiêu nghiên cứu 2 4. Giả thiết khoa học của đề tài nghiên cứu 2 5. Phương pháp nghiên cứu 3 6. Đóng góp mới của đề tài nghiên cứu 3 B. Giải quyết vấn đề I. Cơ sở lý luận và thực tiễn 4 1. Cơ sở khoa học 4 2. Thực trạng việc tổ chức thực hiện 5 2.1. Tình hình khảo sát điều tra thực trạng 5 2.2. Thuận lợi 6 2.3. Mặt hạn chế va nguyên nhân 7 II. Những biện pháp thực hiện 8 1. Tạo môi trường hoạt động cho trẻ kể chuyện sáng tạo 8 2. Tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lý của trẻ 9 3. Nghiên cứu tài liệu 9 4. Dạy trẻ cách sử dụng nhân vật phù hợp với ngôn ngữ lời kể sáng tạo 11 5. Lồng ghép các môn học khác khi dạy trẻ kể chuyện sáng tạo 14 6. Dạy trẻ kể chuyện ở mọi luc mọi nơi 15 7. Tuyên truyền kết hợp với phụ huynh 18 III. Kết luận 19 1. Về bản thân 19 2. Về trẻ 19 3. Về đồ dùng trực quan 19 4. Về phụ huynh 20 IV. Bài học kinh nghiệm 20 C. Kết luận va kiến nghị 22 II. Kết luận 22 III. Kiến nghị 23 D. Phụ lục 25
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_kinh_nghiem_trong_cong_tac_huon.doc