Sáng kiến kinh nghiệm Hướng dẫn học sinh Tiểu học tự học
“Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai”. Trẻ em là nguồn hạnh phúc của gia đình, tương lai của đất nước, là lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Gia đình và Xã hội dành cho trẻ những điều kiện sống tốt nhất cho sự phát triển về thể chất, tinh thần, trí tuệ, tình cảm và đạo đức của trẻ. Vâng, trẻ em ngày nay đã được tiến lên một vị trí mới trong xã hội, các em được hưởng những điều kiện ưu tiên để sống và phát triển nên người. Chúng ta thấy rằng, thai nhi trong bụng mẹ tự phát triển thành em bé. Bé tự cất tiếng khóc chào đời, tập bú, tập ăn, tập lẫy, tập bò, ê a tập nói Bé tự học, tự phát triển trong vòng tay thương yêu của cha mẹ. Lớn hơn một chút, bé tự học, tự rèn nào là múa, vẽ, hát ca, làm tóan, làm văn. dưới sự hướng dẫn của cô thầy. Như vậy, tự học, tự rèn, tự phát triển là điều kiện cốt lõi giúp phát triển bản thân trẻ.
Đuyết - khem( Durkheim) có một câu nói rất hay: “Giáo dục là việc xã hội hóa cá nhân vị thành niên một cách hệ thống”. Như vậy, muốn hình thành và phát triển nhân cách theo mục tiêu đào tạo đã định, phải làm cho học sinh liên tục tự học, học và hành (tất nhiên phải phù hợp với tâm sinh lí học sinh) , xem đó là hạnh phúc trong học tập hàng ngày của bản thân. Phương pháp giáo dục tích cực lấy học sinh làm trung tâm coi trọng quá trình tự học, tự đào tạo, rèn luyện của người học, cho học sinh nhận thức sâu sắc rằng không phải học để chuẩn bị sống mà học trong khi sống và sống trong khi đang học.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Hướng dẫn học sinh Tiểu học tự học

Trường Tiểu học Duy Tân SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Hướng dẫn học sinh tiểu học tự học Tác giả: Đỗ Thị Mai Trâm 1 HƯỚNG DẪN HỌC SINH TIỂU HỌC TỰ HỌC I. ĐẶT VẤN ĐỀ: “Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai”. Trẻ em là nguồn hạnh phúc của gia đình, tương lai của đất nước, là lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Gia đình và Xã hội dành cho trẻ những điều kiện sống tốt nhất cho sự phát triển về thể chất, tinh thần, trí tuệ, tình cảm và đạo đức của trẻ. Vâng, trẻ em ngày nay đã được tiến lên một vị trí mới trong xã hội, các em được hưởng những điều kiện ưu tiên để sống và phát triển nên người. Chúng ta thấy rằng, thai nhi trong bụng mẹ tự phát triển thành em bé. Bé tự cất tiếng khóc chào đời, tập bú, tập ăn, tập lẫy, tập bò, ê a tập nói Bé tự học, tự phát triển trong vòng tay thương yêu của cha mẹ. Lớn hơn một chút, bé tự học, tự rèn nào là múa, vẽ, hát ca, làm tóan, làm văn..dưới sự hướng dẫn của cô thầy. Như vậy, tự học, tự rèn, tự phát triển là điều kiện cốt lõi giúp phát triển bản thân trẻ. Đuyết- khem( Durkheim) có một câu nói rất hay: “Giáo dục là việc xã hội hóa cá nhân vị thành niên một cách hệ thống”. Như vậy, muốn hình thành và phát triển nhân cách theo mục tiêu đào tạo đã định, phải làm cho học sinh liên tục tự học, học và hành (tất nhiên phải phù hợp với tâm sinh lí học sinh) , xem đó là hạnh phúc trong học tập hàng ngày của bản thân. Phương pháp giáo dục tích cực lấy học sinh làm trung tâm coi trọng quá trình tự học, tự đào tạo, rèn luyện của người học, cho học sinh nhận thức sâu sắc rằng không phải học để chuẩn bị sống mà học trong khi sống và sống trong khi đang học. Hiện nay, đổi mới phương pháp giáo dục được thực hiện sâu rộng trong trường học nhằm phát huy tinh sáng tạo, chủ động của học sinh , giúp học sinh phát huy tính tự học của bản thân. Phát huy nội lực tự học của học sinh vừa là mục 2 tiêu, vừa là phương pháp giáo dục, vừa là con đường nâng cao chất lượng và hiệu quả của nhà trường. II/ NHỮNG ĐIỂM CẦN LƯU Ý TRONG VIỆC TỰ HỌC CỦA HỌC SINH TIỂU HỌC 1/ Khác với việc tự học của người lớn (Học sinh Trung học, Đại học) việc tự học của Học sinh Tiểu học bao giờ cũng phải có sự hướng dẫn tự học của thầy cô giáo, có thể kết hợp với sự hỗ trợ của cha mẹ các em. Bởi các em đang ở lứa tuổi ham chơi hơn ham học, ý thức học tập ở các em chưa cao. 2/ Hướng dẫn Học sinh Tiểu học tự học cần lưu ý đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi các em, không được thoát ly trình độ hiểu biết, sự suy nghĩ của các em. Nếu giáo viên đưa ra yêu cầu quá cao thì học sinh sẽ chán và thiếu tự tin vào bản thân; nếu giáo viên đưa ra yêu cầu quá thấp thì học sinh sẽ cảm thấy thiếu hứng thú học tập. Chính vì thế GV phải bám sát chương trình SGK, bài học ở lớp khi cần mở rộng thì GV chỉ nên xoay quanh các kiến thức đang học. 3/ Thường xuyên động viên khuyến khích học sinh Tiểu học tự giác học tập, không áp đặt gò ép trẻ. III/ NHỮNG BIỆN PHÁP CỤ THỂ: 1/ Kết hợp với gia đình: Thông qua các buổi họp Phụ huynh học sinh, yêu cầu bố trí giờ tự học cho Học sinh Tiểu học ở nhà, góc học tập của trẻ cần cách biệt với không gian sinh hoạt ồn ào của gia đình. Các ngày nghỉ như chủ nhật, ngày lễ không buộc trẻ phải tự học, kết hợp cho trẻ vui chơi. 3 2/ Hướng dẫn học sinh tự học ở nhà: Mặc dù không giảng dạy tất cả các môn cho các em ( dạy chuyên sâu) nhưng tôi vẫn theo sát bài học ở lớp của các em để hướng dẫn học sinh tự học ở nhà. Việc chuẩn bị tốt bài ở nhà sẽ làm cho trẻ hứng thú, năng động, tự tin và tích cực trong các tiết học ở lớp. a) Học bài cũ: Tôi thường chỉ rõ cho Học sinh kiến thức cơ bản thông qua các hoạt động giảng dạy: thảo luận nhóm rút ra nội dung cần nhớ, trao đổi ý kiến với mọi người về một vấn đề đang thắc mắc để các em dễ dàng ghi nhớ có suy nghĩ, tránh học vẹt, học mà chẳng hiểu gì. Ví du:ï Khi dạy các em môn Luyện từ và câu đến bài “ Câu kể Ai là gì?”, tôi cho học sinh thảo luận nhóm so sánh đối chiếu cách tìm bộ phận chính của 3 kiểu câu kể: Ai làm gì?; Ai thế nào? và Ai là gì? ( hai kiểu câu Ai làm gì?; Ai thế nào? học sinh đã học trước). Khi so sánh như vậy học sinh nắm bài chắc hơn, học sinh hiểu rằng trong cả 3 mẫu câu này, chủ ngữ đều trả lời cho câu hỏi: Ai? Cái gì? Con gì? Chỉ có cách đặt câu hỏi tìm vị ngữ là khác nhau mà thôi! b) Làm bài tập có sự gợi ý hướng dẫn những điểm khó Ví dụ: Khi học sinh học tập làm văn bài “ luyện tập miêu tả các bộ phận của cây cối” , tôi yêu cầu học sinh dành 5 phút giờ chơi để quan sát kĩ rễ cây bàng được trồng trong sân trường trước khi về nhà viết 1 đoạn. Tôi không quên hướng dẫn các em sử dụng càng nhiều giác quan để quan sát càng tốt: dùng mắt quan sát độ lớn, hình dáng, màu sắcdùng tay để sờ vào phần rễ nổi lên trên mặt đất. Tư duy liên tưởng xem bộ rễ cây bàng giống với gì, có thể so sánh, nhân hóa với gì. Với phần hướng dẫn như vậy thì đa số các em chịu khó quan sát và thực hiện bài viết tương đối tốt. 4 c) Chuẩn bị bài mới: Đây là điều kiện rất quan trọng giúp các em tiếp thu tốt bài mới, các em dễ dàng hơn trong việc nắm bắt kiến thức, giờ học cũng sẽ nhẹ nhàng mà hiệu quả lại cao. Giáo viên cần hướng dẫn nội dung các câu hỏi gợi ý cho học sinh suy nghĩ. Và đây sẽ chính là những câu hỏi học sinh sẽ thảo luận trong khi học bài mới, giáo viên cũng có thể cho học sinh chuẩn bị theo nhóm (nếu các em ở gần nhà nhau), nhưng khi học nhóm mỗi học sinh đều phải chuẩn bị cá nhân, cần phải độc lập suy nghĩ trước, không ỷ lại, dựa dẫm vào bạn. Ví du:ï Khi chuẩn bị dạy bài “Tóm tắt tin tức” (Tập làm văn- tuần 24- lớp 4), tôi yêu cầu học sinh chuẩn bị trước các câu hỏi: - Tóm tắt tin tức nghĩa là gì? - Cần thực hiện những việc gì khi tóm tắt tin tức? - Đọc kĩ để nắm nội dung bản tin: “Vịnh Hạ Long được tái công nhận là di sản thiên nhiên thế giới” Với sự hợp tác của học sinh trong việc chuẩn bị bài, mặc dù tiết tập làm văn chỉ có 35 phút tôi vẫn có thể truyền đạt tốt cho học sinh nắm mục tiêu bài học. Khi dạy kĩ thuật bài “ trồng cây rau, hoa”, sau khi hướng dẫn thao tác kĩ thuật cách gieo hạt đậu xanh, đậu đen.. tôi cho học sinh tự chọn nhóm, điều kiện nhóm có những học sinh ở gần nhà nhau, các em sẽ cùng thực hiện việc gieo hạt, chăm sóc cây phần lớn gia đình các em học sinh của trường tôi sinh sống bằng nghề làm giá, chính vì thế khi được giao công việc này các em rât thích thú, phấn khởi. 3/ Hướng dẫn học sinh ôn tập: 5 Sau một chủ điểm, một chương.. giáo viên sẽ yêu cầu các em tự hệ thống hóa những kiến thức đã học. Khi hướng dẫn học sinh tự học, giáo viên không cần đi vào chi tiết (vì các em đã học rồi) nhưng cần phải nêu các kiến thức cơ bản của các chương, các mục để học sinh nắm vững và vận dụng vào phần tự học của bản thân. Ví dụ: Sau khi học Tóan về dấu hiệu chia hết, tôi yêu cầu học sinh tìm những điểm cần lưu ý, những chi tiết giúp em dễ nhớ về dấu hiệu chia hết cho 2,5,3 và 9. Học sinh khá giỏi dễ dàng nhận biết đối với dấu hiệu chia hết cho 2,5 chỉ cần lưu ý chữ số tận cùng, còn đối với dấu hiệu chia hết cho3 và 9 thì ta cần phải xét đến tổng các chữ số của số đó. 4/ Chú ý cách đăït câu hỏi kích thích học sinh tư duy: Mặc dù đã có những câu hỏi trong sách giáo khoa và sách hướng dẫn giảng dạy của giáo viên nhưng giáo viên cũng cần phải suy nghĩ thêm những câu hỏi nhằm gợi suy nghĩ cho học sinh khi tự học (hoặc thay đổi hệ thống câu hỏi đã có sao cho phù hợp với trình độ học sinh, buộc học sinh phải suy nghĩ để trả lời). Các câu hỏi này gợi suy nghĩ thông minh cho học sinh, không phải các câu hỏi để nhớ kiến thức hoặc học thuộc lòng. Đặt câu hỏi cũng là một nghệ thuật đòi hỏi sự sáng tạo của giáo viên. Ví du:ï Khi dạy môn Đạo đức bài “Giữ gìn các công trình công cộng” (bài 11 trang 34 SGK) , ở hoạt động 2, sau khi học sinh làm việc nhóm đôi bài tập 1, SGK. Trong khi đại diện từng nhóm trình bày, cả lớp trao đổi tranh luận về tranh 3 (vẽ hai học sinh đang khắc chữ trên thân cây), tôi đưa câu hỏi: “Đến thăm các di tích lịch sử, có người hay khắc tên mình lên thân cây cổ thụ, lên vách đá hoặc viết nhăng nhít lên tường. Làm như vậy có hại gì? Để ghi nhớ buổi tham quan di tích lịch sử, tốt nhất ta nên làm gì?” Câu hỏi trên đã giúp học sinh ý thức mình cần phải làm gì để giữ gìn các công 6 trình công cộng. Sau tiết học, tôi không quên giúp học sinh ghi nhớ và thực hiện: Những di tích, những công trình Ông cha xây dựng, chúng mình giữ chung. 5/ Hướng dẫn học sinh tự phát hiện , thắc mắc qua các bài học: Giáo viên cần tạo điều kiện, tập cho học sinh phát hiện thắc mắc qua các bài học , tự tìm tòi, tự giải đáp, chỗ nào cảm thấy chưa chắc chắn thì trao đổi ở nhóm hoặc hỏi lại thầy cô giáo. Giáo viên chỉ là người hướng dẫn, người trọng tài, người đạo diễn, “giáo viên không còn là ống dẫn thông tin mà là chất xúc tác của quá trình dẫn thông tin đó. Giáo viên luôn ở bên cạnh học sinh kích thích, duy trì, thúc đẫy bước đi vừa sức với những giải thích, bổ sung Giáo viên là trợ lực viên của tiến trình học tập nhưng không bao giờ học thay cho học sinh” (dẫn theo Makiguchi) Ví du:ï Bài “Mở rộng vốn từ: Dũng cảm” (tuần 26, SGK TV trang 83) có khá nhiều từ khó hiểu như: can trường, bạo gan, nhu nhược, khí thế, dũng mãnh.. và những thành ngữ như: ba chìm bảy nổi, vào sinh ra tử, gan vàng dạ sắt, chân lấm tay bùn Tôi vận dụng phương pháp “Thẻ lựa chọn”, tôi đưa một số từ trong bài vào giấy A4, học sinh lựa chọn những từ mình hiểu và không hiểu, sau đó học sinh đi tìm bạn khác để trao đổi làm rõ nghĩa về những từ mình chưa hiểu. Cuối cùng những từ không thể giải thích được, học sinh tra tự điển hoặc thảo luận với lớp và giáo viên. 6/ Tùy theo từng tình huống học cụ thể của trẻ mà giáo viên có nhiều cách định hướng cho trẻ tự tìm ra kiến thức: a) Định hướng cho học sinh đi từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Ở lứa tuổi học sinh Tiểu học, tư duy của các em là kiểu tư
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_huong_dan_hoc_sinh_tieu_hoc_tu_hoc.pdf