SKKN Vận dụng tài liệu chuẩn kiến thưc, kĩ năng thiết kế tiết đọc – hiểu văn học Việt Nam trong Trường THPT
Việc nhận thức về tài liệu Chuẩn kiến thức, kĩ năng còn có nhiều ngộ nhận Khái niệm Chuẩn kiến thức, kĩ năng nên hiểu thế nào ? Nên dạy đúng Chuẩn để HS dễ hiểu hay nên phát triển thêm kiến thức, dạy đúng cấu trúc trong sách Chuẩn để an toàn cho GV hay nên phá vỡ cấu trúc ? Chỉ đạo từ phía thanh tra chuyên môn có sức thuyết phục hay chỉ đạo của HĐBM có sức thuyết phục hơn ?.
Mặt khác, chưa có sự đồng thuận cao ở nội bộ từng tổ chuyên môn và các tổ chuyên môn Ngữ văn THPT trong tỉnh. Việc cụ thể hóa nhận thức về Chuẩn vào thiết kế bài dạy và tiến trình tổ chức các hoạt động dạy – học trên lớp còn nhiều lúng túng càng phát lộ những mâu thuẫn ở không ít GV. Thống nhất việc thiết kế bài dạy – học môn Ngữ văn đã được HĐBM Ngữ văn đặt ra một cách cấp thiết. Vì thế, chúng tôi tham gia vào việc giải quyết vấn đề soạn và dạy Ngữ văn qua sáng kiến Vận dụng tài liệu chuẩn kiến thức, kĩ năng thiết kế tiết Đọc – hiểu văn học Việt Nam trong trường THPT.
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Vận dụng tài liệu chuẩn kiến thưc, kĩ năng thiết kế tiết đọc – hiểu văn học Việt Nam trong Trường THPT

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM VẬN DỤNG TÀI LIỆU CHUẨN KIẾN THƯC, KĨ NĂNG THIẾT KẾ TIẾT ĐỌC – HIỂU VĂN HỌC VIỆT NAM TRONG TRƯỜNG THPT GV Huỳnh Quang Sơn A. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI iệc nhận thức về tài liệu Chuẩn kiến thức, kĩ năng còn có nhiều ngộ nhận Khái niệm Chuẩn kiến thức, kĩ năng nên hiểu thế nào ? Nên dạy đúng Chuẩn để HS dễ hiểu hay nên phát triển thêm kiến thức, dạy đúng cấu trúc trong sách Chuẩn để an toàn cho GV hay nên phá vỡ cấu trúc ? Chỉ đạo từ phía thanh tra chuyên môn có sức thuyết phục hay chỉ đạo của HĐBM có sức thuyết phục hơn ?... Mặt khác, chưa có sự đồng thuận cao ở nội bộ từng tổ chuyên môn và các tổ chuyên môn Ngữ văn THPT trong tỉnh. Việc cụ thể hóa nhận thức về Chuẩn vào thiết kế bài dạy và tiến trình tổ chức các hoạt động dạy – học trên lớp còn nhiều lúng túng càng phát lộ những mâu thuẫn ở không ít GV. Thống nhất việc thiết kế bài dạy – học môn Ngữ văn đã được HĐBM Ngữ văn đặt ra một cách cấp thiết. Vì thế, chúng tôi tham gia vào việc giải quyết vấn đề soạn và dạy Ngữ văn qua sáng kiến Vận dụng tài liệu chuẩn kiến thức, kĩ năng thiết kế tiết Đọc – hiểu văn học Việt Nam trong trường THPT. B. THỰC TRẠNG TRƯỚC KHI THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP Đề xuất những giải pháp cụ thể cho việc dạy – học chương trình Chuẩn rất cần sự chia sẻ những thuận lợi, khó khăn và những cách khắc phục khó khăn của GV dạy Ngữ văn. I. Một số thuận lợi, khó khăn cơ bản khi thực hiện Chuẩn 1) Thuận lợi Ý kiến của một số truờng trong tỉnh Đồng Nai: Thiết kế bài dạy theo Chuẩn có nhiều thuận lợi + Nội dung ngắn gọn, định hướng được trọng tâm, dễ nhớ, dễ truyền đạt, tạo mối liên hệ giữa GV và HS tốt hơn. Chuẩn bị thi tốt. HS thực hành ở nhà nhiều hơn. + Kiến thức hay, tạo sự đồng bộ, phát huy tích cực + Gọn sâu, phù hợp các đối tượng + GV không dạy quá tải. + Bên cạnh đó, trong dự thảo, Bộ GD - ĐT hướng dẫn với những phần kiến thức được điều chỉnh “không dạy” hoặc “đọc thêm”, những phần kiến thức không yêu cầu HS phải ghi nhớ, các trường không được tổ chức kiểm tra, đánh giá. Những kiến thức đã lược bỏ cũng sẽ không có trong nội dung đề thi của các kì kiểm tra học kì, cuối năm, kì thi tốt nghiệp THPT; phát huy chất xám của toàn ngành nhằm thực hiện giảm tải, nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục, tạo cơ sở quan trọng cho việc đổi mới chương trình – SGK phổ thông vào năm 2015; Tỉ lệ GV dạy có uy tín ngày càng cao, nhiều GV trẻ đã phát huy sở trường và sớm có uy tín trong trường, trong ngành GD – ĐT; Tâm huyết, đức hi sinh của thầy cô giáo dạy Ngữ văn luôn dành cho các em HS, cho nghề dạy học. V + Thực tế trong chương trình hiện nay có những bài học nội dung ít nhưng dành thời gian nhiều, ngược lại có những bài nội dung nhiều nhưng thời gian rất ít, vì vậy chủ trương giảm tải đã tháo gỡ được khó khăn này. 2) Khó khăn Thiết kế bài dạy theo Chuẩn có không ít bất lợi. Có những hạn chế khi lập kế hoạch bài dạy do chủ quan từ phía GV. Một số thầy cô giáo hiểu trách nhiệm cá nhân chưa thấu đáo; có những khó khăn từ phía cán bộ quản lí giáo dục; từ phía phân phối chương trình Nhưng chung quy lại, những khó khăn từ nhiều nguyên nhân là có thực. Xin nêu lại một vài thực trạng : + Một số GV thiếu tầm xác định và bám sát chuẩn tối thiểu, luôn thụ động trong cách truyền thụ, không biết “đãi cát tìm vàng” (...). Hậu quả là người học bị nhồi nhét kiến thức, luôn phải chịu áp lực quá tải. + Có nhiều GV tích cực suy nghĩ, tìm tòi, cải tiến và đổi mới PPDH với nhiều cách thức sáng tạo nhưng không được sự hưởng ứng vì đồng nghiệp sợ không sát đáp án thi sinh ra bất lợi. Khi đánh giá một tiết dạy người dự coi trọng tính bài bản của từng bước thực hiện ( Nội dung – nghệ thuật – ý nghĩa văn bản... ) mà xem nhẹ khả năng sáng tạo của người dạy. Kết cấu bài học theo kiểu kịch “tam duy nhất ( Nội dung – nghệ thuật – ý nghĩa văn bản... ) phá vỡ nguyên tắc Đọc – hiểu văn bản nói chung, Đọc – hiểu văn bản theo loại thể nói riêng. Thực tế để ứng xử với điều này GV an ủi nhau : dạy cho kịp giờ, tròn bài, đủ ý để an toàn. Nhiều giờ đánh giá loại giỏi lại từ cái gọi là tiêu chí này. Khoảng cách giữa GV có năng lực thật sự và GV kinh nghiệm còn khiêm tốn vô hình trung bị xóa nhòa, rút ngắn. + Khâu biên soạn SGK, phân phối khung chương trình THPT là do Vụ Trung học quyết định, khâu ra đề thi lại do Cục Khảo thí làm. Hai khâu này dường như vẫn chưa tìm được tiếng nói chung”. + GV chỉ dừng lại ở việc trình bày những kiến thức đơn giản, tối thiểu ( mà HS dễ dàng tự học ) thì dễ gây hiện tượng nhàm chán, chủ quan ở HS. + Khái niệm “quá tải” không được diễn giải một cách rõ ràng, nếu không muốn nói là còn mơ hồ. + Học Chuẩn không học SGK cũng không đủ, ngược lại học SGK cũng sợ thiếu kiến thức. Nói gì ? Bỏ gì ? Cho ghi thế nào là đủ kiến thức ? Theo chuẩn không thực sự an tâm. Khổ vì Chuẩn và sách “đá”nhau. + Bài soạn theo chuẩn không đủ kiến thức cho HS thi TN THPT. + Sự cố “lệch pha” giữa đáp án và hướng dẫn ôn tập của Bộ. Thí sinh trả lời theo chuẩn đã bị thiếu đơn vị kiến thức trong khi Bộ GD - ĐT yêu cầu GV không “quá lệ thuộc vào SGK” ( mà phải “bám sát Chuẩn kiến thức, kĩ năng” ). Vẫn còn đó nỗi ám ảnh của GV và HS. - Hiện nay, GV dạy Ngữ văn có những bức xúc trong việc thực hiện chương trình Chuẩn kiến thức, kĩ năng Bộ GD-ĐT yêu cầu GV bám sát “Chuẩn kiến thức - kĩ năng”, “không quá lệ thuộc vào SGK”. Vậy thế nào là “quá lệ thuộc vào SGK”, trong khi Luật Giáo dục 2005 đã quy định “Yêu cầu về nội dung kiến thức và kĩ năng quy định trong chương trình giáo dục phải được cụ thể hóa thành SGK ở giáo dục phổ thông” ( khoản 3, điều 6 ). - Nhiều GV không đồng tình tên gọi của bộ tài liệu này : Đã gọi là tài liệu Chuẩn, nội dung, kiến thức biên soạn trong đó phải đạt đến độ hoàn hảo, chính xác. Những gì trong tài liệu này lại cho thấy chưa đúng như tên gọi thật sự của nó. Thậm chí, GV còn dùng các kiến thức của SGV và nhiều tài liệu khác để nhặt lỗi và sửa sai cho sách Chuẩn. 3) Số liệu thống kê : KHỐI TỔNG SỐ TRƯỚC TÁC ĐỘNGSAU TÁC ĐÔNG 12 93 36 (38.7%) 57 (61.3 %) 11 80 27 (33,8 %) 53 (66.2 %) 10 79 23 (29.1 %) 56 (70,9 %) 3 KHỐI 252 86 (34.1 %) 166 (65.9 %) Như vậy, khi áp dụng chuẩn kiến thức vào dạy học, đa số HS thỏa mái học tập hơn. Điều này cũng đúng với các trường trong 2 huyện lân cận. Có lẽ nói, đó là cơ sở thực tiễn của vấn đề. C. NỘI DUNG CỦA ĐỀ TÀI I- Cơ sở lí luận - Chuẩn là những yêu cầu, tiêu chí (gọi chung là yêu cầu) tuân theo những nguyên tắc nhất định, được dùng để làm thước đo đánh giá hoạt động, công việc, sản phẩm của lĩnh vực nào đó. Đạt được những yêu cầu của Chuẩn là đạt được mục tiêu, mong muốn của thầy cô giáo... Một trong những lí do khiến GV chưa hiểu về Chuẩn là GV không đọc kĩ Giới thiệu chung về Chuẩn kiến thức kĩ năng của chương trình giáo dục phổ thông ở những trang đầu mỗi cuốn tài liệu Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức kĩ năng, dẫn đến điều từng được kì vọng thành điều bất an. Theo ông Vũ Đình Chuẩn, Vụ trưởng Vụ Giáo dục phổ thông, Bộ GD – ĐT thì mục đích của việc giảm tải lần này là cắt giảm các nội dung quá khó, trùng lặp, chưa thật sự cần thiết đối với học sinh cũng như các câu hỏi, bài tập, đòi hỏi phải khai thác quá sâu kiến thức lý thuyết, để giáo viên và học sinh dành thời gian cho các nội dung khác nhau. Tạo thêm điều kiện cho giáo viên đổi mới phương pháp dạy học theo yêu cầu chương trình giáo dục phổ thông năm học 2011 – 2012. Các Sở sẽ triển khai nội dung tới các trường và hướng dẫn GV thực hiện. Để đảm bảo chương trình, Bộ sẽ phối hợp với các Sở kiểm tra, đánh giá. Những phần nào không dạy, đọc thêm sẽ không nằm trong chương trình kiểm tra”. Như vậy, trọng tâm giảm tải đã được lưu ý, ghi chú, sửa chữa, loại bỏ những kiến thức những sai sót, dư thừa trong SGK phát hành trước 2011. GV chỉ cần đối chiếu và thực hiện đúng hướng dẫn để đảm bảo tính thống nhất của chủ trương. - Quan điểm của lãnh đạo ngành giáo dục và các nhà nghiên cứu, chương trình Chuẩn kiến thức, kĩ năng - Quy định trong Chương trình giáo dục phổ thông, ban hành theo Quyết định số 16/2006/QĐ-BGDĐT ngày 5 tháng 5 năm 2006 của Bộ trưởng Bộ GD - ĐT. Đó là những “ Yêu cầu cơ bản, tối thiểu về kiến thức, kĩ năng của môn học, hoạt động giáo dục mà HS cần phải và có thể đạt được”; “ là cơ sở để biên soạn SGK, quản lí dạy học, đánh giá kết quả giáo dục ở từng môn học và hoạt động giáo dục”. Bộ GD-ĐT không hề chỉ đạo GV phải dạy hết những nội dung trong SGK, mà cả việc dạy học cũng như kiểm tra, đánh giá đều phải bám sát chương trình. Tình trạng GV dạy ôm đồm tất cả những gì ở SGK là do GV chưa hiểu sâu yêu cầu chương trình, do chất lượng tập huấn GV dạy chương trình mới không đạt hiệu quả và cán bộ quản lí giáo dục các cấp không hướng dẫn rõ ràng, cụ thể cho GV khi triển khai chương trình - SGK mới. GV hiểu chưa đúng thì HS cũng như vậy. - Quan điểm giảm tải nêu trên đã định hướng tổng quát về phương pháp : Ông Vũ Nho phát triển thêm khái niệm Chuẩn để làm rõ mức độ khác nhau của khái niệm Chuẩn. Có 3 loại chuẩn : Chuẩn tối thiểu, Chuẩn thông dụng, Chuẩn tối đa. Chuẩn tối thiểu ( Thể hiện điều cần thiết và cơ bản mà mọi HS tại một trình độ nhất định ở một môn nhất định phải biết và nắm vững được; Thể hiện mục tiêu của GV và của trường để đưa tất cả HS tới trình độ này ). Chúng ta đã xây dựng chương trình và viết SGK theo cả ba mức Chuẩn. Chúng ta dạy học và kiểm tra đánh giá cũng kết hợp cả ba mức Chuẩn. Tùy từng vùng miền, tùy từng lớp học cụ thể, người GV sử dụng phối hợp tỉ lệ ba mức Chuẩn đó sao cho hiệu quả nhất. Để thực hiện định hướng giảm tải, bản thân GV phải cụ thể hoá, chi tiết hoá, tường minh hoá những nội dung, những căn cứ để dạy học, kiểm tra, đánh giá chất lượng. Phải biết dừng, lướt qua một số đơn vị trí thức và kĩ năng HS đã thật sự thông hiểu để mở rộng, nâng cao Giảng dạy là một nghệ thuật hợp tác. GV không cung cấp, nhồi nhét ki
File đính kèm:
skkn_van_dung_tai_lieu_chuan_kien_thuc_ki_nang_thiet_ke_tiet.pdf