SKKN Rèn kĩ năng làm văn nghị luận xã hội cho học sinh qua việc dạy kiểu bài đọc – hiểu văn bản nghị luận, chính luận
Môn Ngữ văn trong nhà trường hiện nay gồm ba phân môn là Tiếng Việt,
Đọc văn và Làm văn, mỗi phân môn đảm nhận những nhiệm vụ khác nhau. Trong
đó Làm văn là phân môn mang tính chất thực hành tổng hợp giữa các phân môn
Tiếng Việt với phân môn Đọc văn. Mỗi bài làm văn có thể coi là một “tác phẩm
nhỏ” của học sinh, phản ánh khá rõ nhận thức, kĩ năng, tình cảm của học sinh, là
cơ hội để học sinh bộc lộ rõ nét nhất, tập trung nhất vốn hiểu biết nhiều mặt cũng
như các phẩm chất và năng lực của mình.
Ở chương trình lớp 11, 12, học sinh chủ yếu được thực hành kiểu bài văn
nghị luận, gồm nghị luận văn học và nghị luận xã hội. Khác với chương trình
những năm trước đây, nghị luận xã hội chiếm một vị trí quan trọng trong chương
trình hiện nay, là phần kiểm tra bắt buộc trong các kì thi kiểm tra năng lực học sinh
từ thi tốt nghiệp đến thi ĐH, CĐ. Cùng với nghị luận văn học, kiểu bài nghị luận
xã hội góp phần hình thành các kĩ năng cơ bản cho học sinh trong việc tạo lập văn
bản, đồng thời cung cấp cho các em nhiều tri thức về đời sống chính trị, xã hội,
giúp các em có cơ hội bày tỏ quan điểm của mình về những vấn đề thiết thực trong
đời sống thực tế đang diễn ra xung quanh mình, rèn luyện nâng cao phẩm chất tư
tưởng, đạo đức của mình.
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Rèn kĩ năng làm văn nghị luận xã hội cho học sinh qua việc dạy kiểu bài đọc – hiểu văn bản nghị luận, chính luận

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI TRƯỜNG THPT NGÔ SĨ LIÊN Mã số: ................................ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM RÈN KĨ NĂNG LÀM VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI CHO HỌC SINH QUA VIỆC DẠY KIỂU BÀI ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN NGHỊ LUẬN, CHÍNH LUẬN Người thực hiện: NGUYỄN VĂN CÔNG Lĩnh vực nghiên cứu: - Phương pháp dạy học bộ môn: Ngữ văn Có đính kèm: Các sản phẩm không thề hiện trong bản in SKKN Mô hình Phần mềm Phim ảnh Hiện vật khác Năm học: 2011 - 2012 BM 01-Bia SKKN SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC I. THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN 1. Họ và tên: Nguyễn Văn Công 2. Ngày tháng năm sinh: 17 – 04 – 1969 3. Nam, nữ: Nam 4. Địa chỉ: Trường THPT Ngô Sĩ Liên 5. Điện thoại: 0613866499 (CQ)/ 0613922048 (NR); ĐTDĐ: 0908875675 6. Fax: E-mail: haicong1969@yahoo.com 7. Chức vụ: Tổ trưởng chuyên môn, Chủ tịch Công đoàn 8. Đơn vị công tác: Trường THPT Ngô Sĩ Liên II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO - Học vị (hoặc trình độ chuyên môn, nghiệp vụ) cao nhất: Thạc sĩ Văn học - Năm nhận bằng: 2011 - Chuyên ngành đào tạo: Văn học Việt Nam III. KINH NGHIỆM KHOA HỌC - Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: Giảng dạy môn Ngữ văn Số năm có kinh nghiệm: 17 - Các sáng kiến kinh nghiệm đã có trong 5 năm gần đây: Phương pháp hướng dẫn học sinh đọc hiểu các bài Đọc thêm trong chương trình Ngữ văn THPT Vận dụng lí thuyết thể loại vào việc giảng dạy một số tác phẩm tự sự trong chương trình môn Ngữ văn THPT Đề tài: RÈN KĨ NĂNG LÀM VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI CHO HỌC SINH QUA VIỆC DẠY KIỂU BÀI ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN NGHỊ LUẬN, CHÍNH LUẬN I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Môn Ngữ văn trong nhà trường hiện nay gồm ba phân môn là Tiếng Việt, Đọc văn và Làm văn, mỗi phân môn đảm nhận những nhiệm vụ khác nhau. Trong đó Làm văn là phân môn mang tính chất thực hành tổng hợp giữa các phân môn Tiếng Việt với phân môn Đọc văn. Mỗi bài làm văn có thể coi là một “tác phẩm nhỏ” của học sinh, phản ánh khá rõ nhận thức, kĩ năng, tình cảm của học sinh, là cơ hội để học sinh bộc lộ rõ nét nhất, tập trung nhất vốn hiểu biết nhiều mặt cũng như các phẩm chất và năng lực của mình. Ở chương trình lớp 11, 12, học sinh chủ yếu được thực hành kiểu bài văn nghị luận, gồm nghị luận văn học và nghị luận xã hội. Khác với chương trình những năm trước đây, nghị luận xã hội chiếm một vị trí quan trọng trong chương trình hiện nay, là phần kiểm tra bắt buộc trong các kì thi kiểm tra năng lực học sinh từ thi tốt nghiệp đến thi ĐH, CĐ. Cùng với nghị luận văn học, kiểu bài nghị luận xã hội góp phần hình thành các kĩ năng cơ bản cho học sinh trong việc tạo lập văn bản, đồng thời cung cấp cho các em nhiều tri thức về đời sống chính trị, xã hội, giúp các em có cơ hội bày tỏ quan điểm của mình về những vấn đề thiết thực trong đời sống thực tế đang diễn ra xung quanh mình, rèn luyện nâng cao phẩm chất tư tưởng, đạo đức của mình. Vì nhiều lí do, hiện nay, việc giảng dạy cho học sinh làm kiểu bài nghị luận xã hội ở trường THPT Ngô Sĩ Liên còn gặp nhiều khó khăn. Trước hết là khó khăn chung do thời lượng chương trình, số tiết thực hành cho kiểu bài này còn ít. Một khó khăn nữa là do năng lực của học sinh còn hạn chế. Thực tế cho thấy, trình độ, khả năng viết văn nghị luận, trong đó có nghị luận xã hội của học sinh còn nhiều bất cập. Việc lập ý, dựng đoạn, tạo bố cục cho bài văn và cách tư duy để triển khai một cách mạch lạc những ý tưởng và hiểu biết của mình đang là khó khăn của hầu hết học sinh. Phần nhiều HS (nhất là với đối tượng HS yếu) còn chưa có ý thức vận dụng những kiến thức đã học ở phân môn Tiếng Việt và Đọc văn vào bài làm văn. Mặt khác, khi làm văn nghị luận, HS thường lúng túng trong việc lựa chọn và sử dụng kết hợp các thao tác lập luận một cách chặt chẽ, tự nhiên và nhuần nhuyễn. Ngoài ra, còn phải kể đến những khó khăn về phía giáo viên, có không ít giáo viên còn tỏ ra lúng túng khi hướng dẫn học sinh làm kiểu bài này. Đặc biệt, giáo viên chưa vận dụng tốt quan điểm tích hợp trong việc liên kết các phân môn Đọc văn, Tiếng Việt và Làm văn trong quá trình giảng dạy. Việc tìm tòi các hướng đi giúp giáo viên giải quyết vấn đề này là một trăn trở của chúng tôi trong nhiều năm nay. Một điều dễ nhận thấy là sách giáo khoa Ngữ văn phổ thông hiện nay rất chú trọng vào chức năng ứng dụng của văn bản. Nếu như trước đây, người ta chú ý nhiều đến các văn bản tác phẩm thuộc các thể loại như thơ trữ tình, tự sự, kịch, thì hiện nay chương trình còn đặc biệt quan tâm đến các văn bản nghị luận, chính luận. Chỉ tính riêng trong chương trình Ngữ văn của lớp 11, 12, đã có đến 13 văn bản thuộc kiểu bài nghị luận, chính luận. Đây là các văn bản có đặc trưng thể loại riêng, việc giảng dạy chúng hoàn toàn không giống với các văn bản văn xuôi nghệ thuật khác như truyện, kí Việc bổ sung những văn bản nghị luận, nhất là những văn bản nhật dụng, cũng đặt ra cho giáo viên những yêu cầu mới. Những văn bản này có ý nghĩa quan trọng trong việc chuẩn bị cho học sinh bước vào cuộc sống, có tác dụng sâu sắc đến việc rèn luyện tư duy, phương pháp, tư tưởng cho học sinh. Các văn bản này cũng đem đến cho các em vẻ đẹp của văn chương nghệ thuật, tuy nhiên điểm nổi bật của chúng lại nằm ở tính hùng biện, ở sự chặt chẽ về lập luận, ở sự tác động trực tiếp về mặt tư tưởng, tình cảm liên quan đến những vấn đề chính trị, xã hội. Về phương diện thể loại, xét một cách tương đối, các văn bản này có nhiều điểm gần gũi với kiểu bài văn nghị luận mà học sinh đang được rèn luyện. Vì vậy, khi dạy các văn bản nghị luận, chính luận này trong chương trình, giáo viên sẽ có nhiều thuận lợi cho việc rèn kĩ năng làm văn nghị luận cho học sinh. Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, chúng tôi nhận thấy, việc kết hợp rèn kĩ năng làm văn nghị luận xã hội cho học sinh thông qua việc giảng dạy các văn bản nghị luận, chính luận theo quan điểm tích hợp là một trong những hướng đi phù hợp. Thực tiễn giảng dạy cũng cho thấy, việc tích hợp tri thức đọc văn nghị luận, chính luận vào bài dạy làm văn nghị luận xã hội là một trong những con đường có thể giúp nâng cao chất lượng giảng dạy, giúp học sinh cải thiện được những hạn chế của mình. Đây chính là lí do cơ bản để chúng tôi lựa chọn đề tài “Rèn kĩ năng làm văn nghị luận xã hội cho học sinh qua việc dạy kiểu bài đọc – hiểu văn bản nghị luận, chính luận” cho sáng kiến kinh nghiệm của mình. Trong phạm vi của đề tài, người viết chỉ đề cập đến khả năng kết hợp rèn luyện các kĩ năng làm văn nghị luận xã hội nói chung theo quan điểm tích hợp với việc dạy các văn bản nghị luận, chính luận. Chúng tôi chưa đi sâu vào việc rèn cho học sinh các kĩ năng làm các kiểu bài cụ thể như: nghị luận về một tư tưởng, đạo lí hay nghị luận về một hiện tượng đời sống Các văn bản nghị luận, chính luận được vận dụng trong đề tài chủ yếu chỉ giới hạn ở chương trình các lớp 11 và 12, là các lớp mà học sinh chủ yếu học làm văn nghị luận. Các vấn đề cụ thể phát sinh trong khi thực hiện đề tài sẽ được chúng đề cập đến trong một dịp khác. Đề tài cũng chỉ đề cập đến những vấn đề nảy sinh trong thực tế giảng dạy môn Văn ở trường THPT Ngô Sĩ Liên. II. TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI 1. Cơ sở lý luận 1.1. Quan điểm tích hợp đối với việc giảng dạy phân môn Làm văn Trước đây tồn tại ba bộ sách gắn với ba phân môn là Tiếng Việt, Làm văn và Văn học (bao gồm hai cuốn: Văn học Việt Nam và Văn học nước ngoài). Hiện nay, chỉ tồn tại duy nhất một bộ sách mang tên Ngữ văn. Nghĩa là đã tích hợp tri thức cả ba phân môn nói trên vào trong một bộ sách. Điều đó rất thuận lợi cho GV khi sử dụng phương pháp tích hợp trong dạy học. Dạy học tích hợp và khai thác văn bản dựa vào đặc trưng thể loại là phương pháp, đồng thời là nguyên tắc của bộ môn Ngữ văn ở chương trình phổ thông. Trong quá trình thực hiện, chúng tôi thấy tính ưu việt của phương pháp này hơn hẳn những phương pháp trước đây được vận dụng. Tính ưu việt của phương pháp thể hiện rõ qua thái độ, niềm say mê, kết quả tiếp nhận của học sinh trong từng bài học. Người học không chỉ được chiếm lĩnh kiến thức, có kĩ năng đọc – hiểu các kiểu văn bản thuộc các thể loại văn học các em thường đọc từ sách báo hàng ngày mà còn có khả năng tạo lập văn bản. Đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn coi trọng sự tích cực của học sinh trong việc chiếm lĩnh tri thức khoa học và rèn luyện được kỹ năng, thao tác tư duy. Tích hợp các tri thức trong một bài dạy là xu hướng tất yếu để học sinh có khả năng giải quyết những nhiệm vụ nhận thức được đặt ra. Tích hợp có nghĩa là vận dụng những tri thức liên quan gần gũi, có tính chất công cụ để chiếm lĩnh những tri thức mới. Dạy học theo hướng tích hợp diễn ra trên nhiều cấp độ, từ cấp độ khoa học liên ngành đến khoa học phân môn, đến tri thực cụ thể, riêng lẻ. Tùy vào từng kiểu bài, người giáo viên có thể chọn lựa mảng tri thức hoặc phân môn để tích hợp. Mục đích cuối cùng của bài học chính là giúp học sinh biết vận dụng tri thức đã có để chiếm lĩnh cái mới một cách dễ dàng, hiệu quả và hứng thú. Các phân môn Tiếng Việt, Làm văn và Đọc văn có đặc thù riêng nhưng có quan hệ mật thiết với các phân môn còn lại. Do đó, việc tích hợp tri thức giữa các phân môn vừa là yêu cầu cần thiết, vừa là một xu hướng tự nhiên tất yếu trong quá trình dạy học. Nguyên tắc tích hợp được coi trọng trong cả ba bộ SGK Ngữ văn 10, 11, 12. Có sự tích hợp ngang giữa nội dung dạy học các phần Văn học, Tiếng Việt và Làm văn cùng thời kì, có sự tích hợp dọc, phối hợp về kiến thức, kĩ năng theo hệ thống từng phân môn. Về tích hợp ngang, tương đương với việc học các văn bản nghị luận, phần Làm văn có các bài học rèn thao tác lập luận ở lớp 11 ( phân tích, so sánh, bác bỏ, bình luận ), có các bài học rèn kĩ năng xây dựng các kiểu bài Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí, Nghị luận về một hiện tượng đời sống ở lớp 12 Như ta đã biết, đối với phân môn Làm văn, mục tiêu dạy học không chỉ dừng lại ở tri thức mà còn hướng đến hình thành kỹ năng. Có nhiều kỹ năng
File đính kèm:
skkn_ren_ki_nang_lam_van_nghi_luan_xa_hoi_cho_hoc_sinh_qua_v.pdf