SKKN Quản lý dạy thêm, học thêm trong giáo dục phổ thông ngành giáo dục và đào tạo tỉnh Đồng Nai

Phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là một trong

những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá

đất nước, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người. Đây là trách nhiệm

của toàn Đảng, toàn dân, trong đó nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục là lực

lượng nòng cốt, có vai trò quan trọng.

Trong những năm qua sự nghiệp giáo dục và đào tạo tỉnh Đồng Nai đã

có những bước phát triển bền vững, chất lượng giáo dục đào tạo luôn luôn ổn

định nhiều mặt. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục ngày càng phát

triển, có phẩm chất đạo đức và ý thức chính trị, trình độ chuyên môn, nghiệp

vụ ngày càng được nâng cao. Đáp ứng được yêu cầu nâng cao dân trí, đào tạo

nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

Để tăng cường quản lý Nhà nước về Giáo dục và Đào tạo, những năm

gần đây, Đảng và nhà nước ban hành nhiều chính sách rất quan trọng, trong

đó có luật giáo dục 2005 và luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật giáo

dục năm 2009, Thông tư số 17/2002/TT-BGDĐT ngày 16/5/2012 Ban hành

về qui định dạy thêm, học thêm. đã cụ thể hoá việc quản lý bằng pháp luật.

Việc thực hiện quản lý nhà nước về Giáo dục và Đào tạo bằng pháp luật, tăng

cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, tạo ra hành lang pháp lý để cho các tổ chức

và cá nhân có thêm cơ hội để đầu tư và hưởng thụ giáo dục ngày một đầy đủ.

Từ Luật Giáo dục, các cơ quan hành chính nhà nước đã ban hành hệ thống văn

bản dưới luật để hướng dẫn các tổ chức cá nhân, người dạy và người học thực

hiện. Nhờ đó trong những năm gần đây lĩnh vực Giáo dục và Đào tạo có nhiều

chuyển biến tích cực, góp phần nâng cao dân trí, giáo dục công dân, xây dựng

nguồn nhân lực và bồi dưỡng nhân tài cho đất nước, đóng góp tích cực vào

công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.

pdf 18 trang Huy Quân 31/03/2025 400
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Quản lý dạy thêm, học thêm trong giáo dục phổ thông ngành giáo dục và đào tạo tỉnh Đồng Nai", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Quản lý dạy thêm, học thêm trong giáo dục phổ thông ngành giáo dục và đào tạo tỉnh Đồng Nai

SKKN Quản lý dạy thêm, học thêm trong giáo dục phổ thông ngành giáo dục và đào tạo tỉnh Đồng Nai
 UBNDTỈNH ĐỒNG NAI CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT 
NAM 
 SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO Độc lập - Tự do - Hạnh phúc 
 Đồng Nai, ngày 27 tháng 5 năm 
2013 
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 
QUẢN LÝ DẠY THÊM, HỌC THÊM 
TRONG GIÁO DỤC PHỔ THÔNG NGÀNH 
GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TỈNH ĐỒNG NAI 
Họ và tên: Phan Đình Chương 
Chức vụ: Chánh Văn phòng 
Đơn vị công tác : Sở Giáo dục và Đào tạo Đồng Nai 
A. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: 
1. Phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là một trong 
những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá 
đất nước, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người. Đây là trách nhiệm 
của toàn Đảng, toàn dân, trong đó nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục là lực 
lượng nòng cốt, có vai trò quan trọng. 
2. Trong những năm qua sự nghiệp giáo dục và đào tạo tỉnh Đồng Nai đã 
có những bước phát triển bền vững, chất lượng giáo dục đào tạo luôn luôn ổn 
định nhiều mặt. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục ngày càng phát 
triển, có phẩm chất đạo đức và ý thức chính trị, trình độ chuyên môn, nghiệp 
vụ ngày càng được nâng cao. Đáp ứng được yêu cầu nâng cao dân trí, đào tạo 
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. 
3. Để tăng cường quản lý Nhà nước về Giáo dục và Đào tạo, những năm 
gần đây, Đảng và nhà nước ban hành nhiều chính sách rất quan trọng, trong 
đó có luật giáo dục 2005 và luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật giáo 
dục năm 2009, Thông tư số 17/2002/TT-BGDĐT ngày 16/5/2012 Ban hành 
về qui định dạy thêm, học thêm. đã cụ thể hoá việc quản lý bằng pháp luật. 
Việc thực hiện quản lý nhà nước về Giáo dục và Đào tạo bằng pháp luật, tăng 
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, tạo ra hành lang pháp lý để cho các tổ chức 
và cá nhân có thêm cơ hội để đầu tư và hưởng thụ giáo dục ngày một đầy đủ. 
Từ Luật Giáo dục, các cơ quan hành chính nhà nước đã ban hành hệ thống văn 
bản dưới luật để hướng dẫn các tổ chức cá nhân, người dạy và người học thực 
hiện. Nhờ đó trong những năm gần đây lĩnh vực Giáo dục và Đào tạo có nhiều 
chuyển biến tích cực, góp phần nâng cao dân trí, giáo dục công dân, xây dựng 
nguồn nhân lực và bồi dưỡng nhân tài cho đất nước, đóng góp tích cực vào 
công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. 
4. Tuy nhiên, hiện nay, trong điều kiện phát triển đa dạng của các loại 
hình và quy mô đào tạo, nhu cầu của người học cũng ngày một cao hơn, việc 
quản lý ngày càng phức tạp. Đặc biệt, hiện tượng dạy thêm, học thêm ngoài 
nhà trường ngày càng phức tạp. Ở nhiều nơi, hiện tượng này gây nhiều ý kiến 
không đồng tình của học sinh, phụ huynh học sinh và của xã hội, đôi khi hiện 
tượng này đã gây bức xúc trong dư luận, ảnh hưởng không tốt đến uy tín 
người thầy, làm xói mòn truyền thống tôn sư trọng đạo của dân tộc ta vốn có 
từ ngàn xưa. 
5. Sự cần thiết đặt ra, phải làm thế nào để quản lý tốt việc dạy thêm, học 
thêm, phát huy mặt tích cực, các ưu điểm của nó và đồng thời khắc phục mặt 
trái, ngăn chặn có hiệu quả việc ép học sinh đi học để thu tiền mà không đem 
lại hiệu quả nâng cao chất lượng học tập của học sinh. 
 Trong phạm vi công tác quản lý nhà nước về giáo dục, tôi xin chọn chủ đề 
“Quản lý dạy thêm học thêm trong giáo dục phổ thông ngành Giáo dục và Đào 
tạo tỉnh Đồng Nai” với mong muốn góp phần giải quyết các bức xúc xã hội và 
nâng cao chất lượng giáo dục. 
B. NỘI DUNG ĐỀ TÀI 
Phần thứ nhất 
THỰC TRẠNG VỀ DẠY THÊM, HỌC THÊM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH 
ĐỒNG NAI 
Từ năm 1988, trong ngành Giáo dục và Đào tạo có xuất hiện một hiện 
tượng mà trước đó chưa có biểu hiện đầy đủ như vậy, đó là một số giáo viên 
phổ thông mà chủ yếu là cấp THPT tổ chức những lớp học tại nhà riêng, có 
nhiều học sinh đến học, thời điểm này là khởi đầu, thực tế cũng không khác 
việc dạy kèm truyền thống từ khi có nghề dạy học là có dạy kèm học sinh yếu, 
đây là một trong các hình thức làm thêm để tăng thu nhập, khắc phục tình 
trạng khó khăn của các giáo viên. Hiện tượng này ngày càng phát triển ở tất cả 
các cấp học từ tiểu học, trung học cơ sở đến trung học phổ thông. Tuy nhiên, 
hồi mới đầu, thầy, Cô giáo chỉ chủ yếu là kèm cặp cho học sinh, qua đó các 
phụ huynh bồi dưỡng cho thầy, Cô làm thêm giờ này một ít thù lao do tuỳ tâm 
từng người, chưa có quy định cụ thể và học sinh đi học lúc ấy là tự giác và 
không hề có sự bắt buộc nào hết. Nhưng càng sau này, hiện tượng trên càng 
phổ biến, các lớp học ngày càng có quy mô lớn hơn và được tổ chức chặt chẽ, 
có lịch và thời khoá biểu cụ thể. Các phòng học được bố trí ngăn nắp hơn, có 
đủ bàn ghế, có quy cách có ánh sáng, âm thanh phù hợp, và đặc biệt là được 
bố trí phòng riêng độc lập với sinh hoạt của gia đình. Học sinh đến học được 
ghi danh, có thể là học sinh do chính giáo viên dạy trên lớp được phân công, 
có thể là học sinh của lớp khác trong trường hoặc học sinh của trường khác 
trong khu vực. Đặc biệt học phí được quy định rõ ràng, mức học phí phụ 
thuộc vào thời gian học, bộ môn dạy và rất phụ thuộc vào trình độ của giáo 
viên. Các lớp học này phổ biến đặt ở ngoài nhà trường, có thể ngay tại nhà 
giáo viên dạy, thuê địa điểm ngoài nhà trường, cá biệt một nhóm giáo viên tự 
tổ chức và thuê địa điểm tập trung để dạy. 
Trong số đó không ít giáo viên đã bằng mọi cách yêu cầu hầu như tất cả 
học sinh mình dạy trên lớp đến học, đối tượng học thêm cả học sinh giỏi cũng 
như học sinh học yếu đều được dạy thêm như nhau, lúc này hiện tượng dạy 
thêm tràn lan xuất hiện. Hiện tượng này bắt đầu phổ biến và gây bức xúc dư 
luận từ những năm cuối 1990 và từ năm 2000 trở đi, đặc biệt phức tạp từ 2005 
đến nay. Cũng từ thời điểm này quan hệ giữa giáo viên và học sinh bị việc dạy 
thêm có thu tiền chi phối. Một bộ phận không nhỏ giáo viên đã có thu nhập 
ngoài lương cao hơn lương nhà nước trả “chân ngoài dài hơn chân trong” đã 
 trở thành khá phổ biến, không ít giáo viên đã lấy mục tiêu dạy thêm làm động 
cơ vào nghề. 
Phần thứ hai 
XÁC ĐỊNH MỤC TIÊU XỬ LÝ TÌNH HUỐNG 
Như vậy rõ ràng, hiện tượng dạy thêm học thêm là vấn đề xã hội, chúng 
ta cần phân tích và tìm ra bản chất của sự việc, các mặt tích cực của nó để 
nhận dạng, đồng thời phải xác định đúng các mặt tiêu cực, nguyên nhân để 
tìm giải pháp khắc phục. 
Hiện nay, dư luận xã hội có nhiều phản ứng khác nhau, xin đưa ra đây 
một số trường hợp: 
1. Dạy thêm, học thêm thực chất là việc giáo viên bổ trợ kiến thức cho 
học sinh, giúp các em học khá hơn, bởi thế, bản chất của dạy thêm, học thêm 
không phải là xấu. Tuy nhiên, ở đâu đó, những biểu hiện không lành mạnh của 
dạy thêm, học thêm đã làm dư luận không ngớt phàn nàn, thậm chí có cái nhìn 
không mấy thiện cảm với thầy, cô giáo. Đặc điểm, phương thức của tiêu cực 
trong dạy thêm, học thêm đã được ngành giáo dục và đào tạo mổ xẻ không ít, 
vấn đề nan giải là phải tìm ra liều thuốc hiệu nghiệm để đặc trị "căn bệnh" khó 
chữa này. 
Sự xuất hiện ngày càng nhiều những nhóm, lớp phụ đạo học sinh yếu 
kém đã giúp cho mặt bằng chất lượng học tập ở các lớp đồng đều và tiến bộ 
hơn. Những bài giảng ngoài giờ, thậm chí ở ngay tại nhà học sinh khó khăn, 
có hoàn cảnh đặc biệt của các thầy, cô giáo đã giúp cho không ít học sinh bớt 
đi nguy cơ phải nghỉ học vì không theo kịp bạn bè, thêm phần vững tâm khi 
tới lớp. Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng, những biểu hiện tiêu cực của dạy 
thêm, học thêm vẫn tồn tại, dù không phổ biến, song lại gây nhiều bức xúc. 
Điều đã và đang bị dư luận lên án gay gắt khiến dạy thêm, học thêm 
biến tướng tràn lan là tình trạng giáo viên dạy trên lớp thì lơ là, "để dành" kiến 
thức, nhưng dạy thêm lại hăng hái; hoặc xuất hiện sự khác biệt trong kết quả 
làm bài kiểm tra giữa những em có học thêm với những em không đi học 
thêm. Thực tế ấy khiến không ít học sinh không muốn cũng phải đi học thêm, 
gây áp lực cho gia đình và cả học sinh. 
2. Như chúng ta đã biết, hiện nay, việc dạy, học thêm đã và đang trở 
thành một trong những vấn đề xã hội nóng bỏng, được dư luận hết sức quan 
tâm. Đa số ý kiến đều lên tiếng phê bình những mặt trái, mặt tiêu cực của việc 
dạy và học thêm như: học quá tải, giáo viên lợi dụng việc dạy thêm, học thêm 
để kiếm tiền, và vì tiền đã xảy ra nhiều chuyện trái với lương tâm, đạo đức của 
người giáo viên ... Thế nhưng, nếu nhìn nhận một cách khách quan hơn, liệu 
việc dạy thêm, học thêm có thật sự là vấn nạn mà xã hội đã và đang kịch liệt 
lên án? 
 Học tập là một quá trình phấn đấu và rèn luyện không ngừng, "Học, học 
nữa, học mãi", một bài học nếu dạy một lần trên lớp chính khoá, nhiều học 
sinh có thể chưa thấm nhuần, chưa tiếp thu hết ngay được. Nếu kiểm tra sẽ có 
ngay các tỷ lệ phần trăm số học sinh nắm vững hoặc chưa nắm vững bài học, 
tỷ lệ ấy dao động tuỳ thuộc vào năng lực, trình độ, tư duy, phẩm chất trí tuệ 
của từng học sinh. Một tập thể lớp học sẽ có sự phân loại từng nhóm khác 
nhau, và đó là điều tất yếu. 
Những đồng tiền giáo viên có được từ việc dạy thêm là thu nhập chính 
đáng từ công sức trí tuệ, tâm huyết của mình. Vậy thì dạy thêm, học thêm có 
gì là xấu, có gì là "ghê gớm" mà một số người phải nặng lời lên án nó như bấy 
lâu nay? Xã hội đừng bao giờ nhìn nhận cực đoan rằng, giáo viên bày trò dạy 
thêm, học thêm để kiếm tiền từ học sinh. Nếu chỉ suy nghĩ theo hướng này thì 
thật oan cho nhà giáo. 
Theo tôi, để hạn chế những tiêu cực của việc dạy thêm, học thêm, trước 
hết, phải khẳng định rằng, đây là một nhu cầu của xã hội. Có cung ắt có cầu 
theo quy luật của cuộc sống, vì vậy, không nên cấm đoán, không nên chỉ nói 
một chiều với những mặt trái của vấn đề. Yêu cầu đặt ra ở đây là gia đình và 
nhà trường cần có sự phối hợp hài hoà, có phương pháp định hướng quản lí 
cho phù hợp, để dạy thêm, học thêm có thể phát huy được những mặt tích cực 
góp phần nâng cao kiến thức giúp học sinh nắm chắc kiến thức khoa học, kiến 
thức phổ thông. 
Ngành giáo dục cần có cơ chế, quy chế cụ thể nhằm tăng cường quản lí 
theo hướng quy định rõ số buổi mà từng môn học được phép tổ chức dạy thêm 
tại trường. Ban giám hiệu nhà 

File đính kèm:

  • pdfskkn_quan_ly_day_them_hoc_them_trong_giao_duc_pho_thong_ngan.pdf