SKKN Một số từ ghép có dạng láy trong chương trình Ngữ Văn Trung học Phổ thông
Trong phong cách ngôn ngữ văn bản văn học thì phần ngôn ngữ học về từ pháp đóng một vai trò hết sức quan trọng. Muốn giải mã một văn bản văn học thì trước tiên phải giải mã về từ. Trong ngôn ngữ học cấu trúc thì từ ghép và từ láy lại chiếm một số lượng không nhỏ. Việc phân biệt từ ghép – từ láy và đặc biệt là từ ghép có dạng láy càng không dễ dàng. Nhiều giáo
viên mới vào nghề; kể cả một số giáo viên lâu năm cũng rất lúng túng khi giải mã các từ ghép có dạng láy.
Ở chương trình Tiếng Việt cấp tiều học; học sinh được học khá kỹ các loại từ ghép – từ láy. Ở chương trình Trung học cơ sở học sinh có dịp học kỹ hơn phần từ ghép – từ láy. Có cả một số ví dụ từ ghép có dạng láy. Còn ở chương trình Ngữ văn Trung học phổ thông ban cơ bản ( lớp 10 -104 tiết; lớp 11 – 122 tiết; lớp 12 – 105 tiết) phần Tiếng Việt chỉ chú trọng phần tu từ và phong cách ngôn ngữ văn bản. Các văn bản được học ở phần văn học trung đại – cận và hiện đại có vốn từ phong phú; trong đó từ ghép có dạng láy lại xuất hiện với tần số khá cao. Mà việc giải mã các từ này không dễ dàng.
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Một số từ ghép có dạng láy trong chương trình Ngữ Văn Trung học Phổ thông

SỞ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI Trường THPT Xuân Thọ Tổ văn Mã số: .. (do HĐKH Sở GDĐT ghi) --------------------------------------------------------------------------------- SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Đề tài: MỘT SỐ TỪ GHÉP CÓ DẠNG LÁY TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN TRUNG HỌC PHỔ THÔNG - Người thực hiện: GV HỒ VĂN SINH - Lĩnh vực nghiên cứu: Phương pháp dạy học bộ môn - Đính kèm: phần mềm chữ Hán Năm học 2011-2012 SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC . I. THÔNG TIN CÁ NHÂN 1- Họ và tên: HỒ VĂN SINH 2- Năm sinh : 1961 3- Nam 4. Địa chỉ: Thi trấn Gia Ray; huyện Xuân Lộc; tỉnh Đồng Nai 5. Điện thoại :0902 422 244 6.FaX: Emai: 7 Chức vụ: Hiệu trưởng trường THPT Xuân Thọ; thành viên tổ Văn. II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO - Trình độ văn hóa: Tốt nghiệp Đại học sư phạm Vinh - Năm nhận bằng: 1983 - Chuyên ngành đào tạo: Ngữ Văn - Tốt nghiệp Cử nhân chính trị - Đại học sư phạm TP. Hồ chí Minh năm 2000. III. KINH NGHIỆM KHOA HỌC: - Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: Nghiên cứu và giảng dạy môn Ngữ Văn – Công dân và quản lý. - Số năm kinh nghiệm: 27 năm ( vào ngành từ năm 1985 cho đến nay). - Một số sáng kiến kinh nghiệm gần đây: + Một số kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm + Kinh nghiệm thực hiện công tác Chữ thập đỏ + Kinh nghiệm vận động các nhà tài trợ trong công tác khuyến học – khuyến tài. + Việc xây dựng Ban công tác thanh niên ở mô hình trường THPT Sở GD-ĐT Đồng Nai CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Trường THPT Xuân Thọ Độc lập – Tự do – hạnh phúc PHIẾU NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Tên sáng kiến: MỘT SỐ TỪ GHÉP CÓ DẠNG LÁY TRONG CHƯƠNG TÌNH NGỮ VĂN TRUNG HỌC PHỔ THÔNG - Họ và tên: Hồ Văn Sinh - tổ Văn - Chức vụ: Hiệu trưởng trường THPT Xuân Thọ 1. Tính mới: - Có giải pháp hoàn toàn mới. - Có giải pháp cải tiến, đổi mới từ giải pháp đã có. 2. Hiệu quả: - Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng trong toàn ngành có hiệu quả cao. - Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ giải pháp đã có và đã triển khai áp dụng trong toàn ngành đạt hiệu quả cao. - Hoàn toàn mới và đã triển khai tại đơn vị đạt kết quả cao. - Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai áp dụng tại đơn vị có hiệu quả . 3. Khả năng áp dụng - Cung cấp được các luận cứ khoa học cho việc hoặc định đường lối chính sách: Tốt: . Khá .. Đạt. - Đưa ra các giải pháp khuyến nghị có khả năng áp dụng thực tiễn; dễ thực hiện đi vào cuộc sống: Tốt: . Khá .. Đạt. - Đã được áp dụng trong thực tế đạt hiệu quả hoặc có khả năng áp dụng đạt hiệu quả tốt trong phạm vi rộng: Tốt: . Khá .. Đạt. XÁC NHẬN CỦA TỔ CHUYÊN MÔN THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ (ký tên ghi rõ họ tên) (ký tên ghi rõ họ tên-đóng dấu) MỤC LỤC (theo công văn số 1433/ SGDĐT- VP v/v hướng dẫn đăng ký Sáng kiến kinh nghiệm năm 2011- 2012) tt Tên đề mục trang I Lý do chọn đề tài 5 II Tổ chức thực hiện đề tài 6 1 Mục đích tổng quát 6 2 Mục đích cụ thể 6 3 Khảo sát thực trạng 6 4 Giáo viên 6 5 Giới hạn đề tài 7 6 Quy ước 7 III. Nội dung chính 8 iV. Kết luận 15 V Đề xuất khuyến nghị - khả năng áp dụng 15 VI Tài liệu tham khảo 16 I - LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Trong phong cách ngôn ngữ văn bản văn học thì phần ngôn ngữ học về từ pháp đóng một vai trò hết sức quan trọng. Muốn giải mã một văn bản văn học thì trước tiên phải giải mã về từ. Trong ngôn ngữ học cấu trúc thì từ ghép và từ láy lại chiếm một số lượng không nhỏ. Việc phân biệt từ ghép – từ láy và đặc biệt là từ ghép có dạng láy càng không dễ dàng. Nhiều giáo viên mới vào nghề; kể cả một số giáo viên lâu năm cũng rất lúng túng khi giải mã các từ ghép có dạng láy. Ở chương trình Tiếng Việt cấp tiều học; học sinh được học khá kỹ các loại từ ghép – từ láy. Ở chương trình Trung học cơ sở học sinh có dịp học kỹ hơn phần từ ghép – từ láy. Có cả một số ví dụ từ ghép có dạng láy. Còn ở chương trình Ngữ văn Trung học phổ thông ban cơ bản ( lớp 10 -104 tiết; lớp 11 – 122 tiết; lớp 12 – 105 tiết) phần Tiếng Việt chỉ chú trọng phần tu từ và phong cách ngôn ngữ văn bản. Các văn bản được học ở phần văn học trung đại – cận và hiện đại có vốn từ phong phú; trong đó từ ghép có dạng láy lại xuất hiện với tần số khá cao. Mà việc giải mã các từ này không dễ dàng. Với kinh nghiệm 27 năm trực tiếp giảng dạy và làm công tác quản lý; tôi rút ra một số kinh nghiệm như sau: - Với đặc điểm đơn tiết, phân tích tính, tiếng Việt có nhiều hiện tượng độc đáo về ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp. Chỉ xét riêng hai bình diện ngữ âm và từ vựng, từ láy tiếng Việt là một sản phẩm đặc biệt thể hiện ở sự lặp lại về phát âm và khả năng biểu đạt sinh động, giàu hình ảnh, thú vị. - Tuy nhiên, trên thực tế, việc nhận diện, phân định từ láy lại rất phức tạp. Trong các biểu hiện về sự nhầm lẫn, lộn xộn nói trên; có một trường hợp rất đáng lưu ý, đó là một số không ít từ ghép bị xem là từ láy. Đề tài Một số từ ghép có dạng láy này sẽ góp phần phân định từ láy qua việc chỉ ra một số từ lâu nay vốn được xem là từ láy nhưng thực chất lại là từ ghép đích thực. Đây chính là đóng góp của đề tài mà tôi tâm huyết trong quá trình dạy học môn Ngữ Văn THPT. Đây là vấn đề rất khó trong học thuật mà lại thường gặp trong thực tế. Tôi đã cố gắng hết sức nhưng chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, mong nhận được sự đóng góp của đồng nghiệp. Mục đích chính là giúp các em học sinh hiểu đúng các từ ghép có dạng láy trong chương trình Ngữ văn Trung học phổ thông. II. TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI 1. Mục đích tổng quát: như đã nói ở mục A, đó là góp phần phân định từ ghép, từ láy. 2. Mục đích cụ thể: 2.1/ Trong quá trình phân tích, chứng minh, luận giải vấn đề, biện pháp giải nghĩa từ được người làm đề tài sử dụng phổ biến như là biện pháp tối ưu, thuyết phục. Từ đó, đề tài sẽ có một tác dụng khách quan nữa là cung cấp cho sinh viên, giúp hồi cố đối với đồng nghiệp về một số từ đơn mà lâu nay bị xem là không có nghĩa, vô nghĩa. Điều này rất có ích dưới góc độ từ nguyên học (từ vựng học lịch sử) trong việc dạy từ vựng học. 2.2/ Ngôn ngữ là chất liệu trước hết, duy nhất của văn chương. Những trường hợp từ đơn được giải nghĩa, làm sáng rõ dưới góc độ từ nguyên học phần lớn là từ thuần Việt cổ, từ Hán Việt có sắc thái cổ kính. Do đó đề tài còn có ích cho việc dạy văn học dân gian, văn học trung đại Việt Nam. 3. Giới hạn đề tài 3.1- Khảo sát thực trạng 3.1a Hiện nay, trong giới nghiên cứu Việt ngữ học tồn tại nhiều định nghĩa khác nhau về từ láy. Tuy khác nhau về độ dài, cách diễn đạt nhưng về nội hàm thì các định nghĩa đều “gặp gỡ” nhau ở điểm: trong nội bộ từ láy có một tiếng (ngữ âm học gọi là âm tiết, từ vựng học gọi là hình vị) được khẳng định là tiếng gốc. Đó là tiếng có nghĩa từ vựng (nghĩa từ điển, phản ánh một sự vật, hiện tượng, đặc điểm, tính chất, hoạt động nào đó trong thế giới khách quan). 3.1b/ Dù có sự “gặp gỡ” như đã nói nhưng trên thực tế tình hình lại hết sức rối ren mà theo chúng tôi tựu trung có hai thực trạng trái ngược. 3.1b.1- Từ được xem là từ láy nhưng xét toàn bộ các tiếng trong nội bộ từ thì không có tiếng nào có nghĩa từ vựng. 3.1b2- Trái lại, từ được xem là từ láy (thường là song tiết) nhưng các tiếng đều có nghĩa từ vựng. 4./ Giáo viên lúng túng trước thực trạng này. Ngay cả các tác giả cuốn Từ điển từ láy tiếng Việt, Nxb. Khoa học xã hội Hà Nội cũng bày tỏ sự phân vân trong Lời nói đầu: “Nhiều vấn đề của hiện tượng từ láy như phân biệt từ láy với dạng láy, láy với ghép, giới hạn về mối quan hệ giữa âm thanh với ý nghĩa của từ láy v.v. vẫn còn đang bỏ ngỏ”. 5. Giới hạn đề tài : Đề tài này giải quyết vấn đề đặt ra (từ được xem là từ láy nhưng các tiếng đều có nghĩa từ vựng). Do thời gian có hạn và tính chất của đối tượng, người viết đề tài tập trung vào các từ lạ, hoặc nếu có phổ biến thì cũng bị xem là từ cổ. Những từ mà dưới góc độ đồng đại ai cũng biết thì không phải đối tượng nghiên cứu của đề tài. Ví dụ : * Thuần Việt: đi đứng, giữ gìn, mặt mũi, mồm miệng, mỏi mệt, nhỏ nhẹ, nương náu, thúng mủng, tươi tốt, tóc tai * Hán Việt: lực lượng, mĩ mãn, minh mẫn, tha thiết, thân thiết, thân thuộc, tề tựu, tích tụ, vĩnh viễn, 6- QUY ƯỚC 6.1. Với quan niệm tiếng nào lạ sẽ được giải thích, chứng minh cho nên sẽ trường hợp từ này chỉ có một tiếng nào đó được giải thích nhưng từ khác, tất cả các tiếng đều được giải thích. 6.2 Từ nào, chúng tôi sưu tầm qua sách, báo, tư liệu thì được kí kiệu ST đặt trong dấu ngoặc đơn ngay sau từ. Từ nào do chúng tôi tự thân phát hiện thì được kí hiệu là P đặt trong dấu ngoặc đơn ngay sau từ 6.3. Để tăng tính thuyết phục của đề tài, từ nào mà Từ điển từ láy tiếng Việt xem là từ láy, sau khi phân tích để phản bác, chúng tôi nói thêm câu “Có trong Từ điển từ láy tiếng Việt”. 6.4. Dù là từ láy hay từ ghép, người viết không giải thích nghĩa của cả từ vì mọi người đều có từ điển, trừ những trường hợp việc giải nghĩa phục vụ cho việc lí giải. III -NỘI DUNG CHÍNH (hiệu quả thực tế của đề tài) Bao biện (P): từ Hán Việt,. Bao (包)là ôm lấy, biện (辦)là làm việc. Bệ vệ (P): từ Hán Việt. Bệ (陛) là bậc thềm nơi cung vua, vệ (衛)là phòng vệ, bảo vệ (động từ), quan thị vệ của nhà vua (danh từ). Có trong Từ điển từ láy tiếng Việt. Biện bác (P): từ Hán Việt. Biện là làm việc, bác (駁)là dùng lí lẽ phản lại, không chấp nhận. Biện bạch: từ Hán Việt. Bạch (白)là rõ, rõ ràng. Bình bồng (ST): bình là bèo, bồng là cỏ bồng. Bèo trôi nổi trên mặt nước, cỏ bồng nhẹ nên gặp gió là lăn lốc trôi đi. Từ một danh từ, bình bồng được dùng như một tính từ chỉ cảnh lênh đênh, phiêu bạt vô định. Chẳng hạn : “Bình bồng còn chút xa xôi Đỉnh chung sao nỡ ăn ngồi cho an !” (Truyện Kiều- Nguyễn Du) Có trong Từ điển từ láy tiếng Việt (các tác giả xem bình bồng cũng như bềnh bồng, bồng bềnh). Bôn ba (P): từ Hán Việt. Bôn (奔)là chạy, ba (波)là sóng. Có trong Từ điển từ láy tiếng Việt. Cải cách (P): từ Hán Việt. Cải (改)là thay đổi, cách (革
File đính kèm:
skkn_mot_so_tu_ghep_co_dang_lay_trong_chuong_trinh_ngu_van_t.pdf