SKKN Một số kinh nghiệm sử dụng đồ dùng trực quan khi dạy phân môn Luyện từ và câu Lớp 2 dạng bài “Mở rộng vốn từ ”

Trong chương trình dạy ở Tiểu học môn Tiếng Việt là môn học có vị trí hết sức quan trọng, nó vừa là môn khoa học, vừa là môn công cụ, nó chiếm thời lượng lớn nhất trong tất cả các môn học. Một trong những phân môn của môn Tiếng Việt, hỗ trợ rất nhiều cho việc giúp học sinh nắm nghĩa của từ, biết dùng từ đặt câu, sử dụng các kiểu câu trong giao tiếp đó là phân môn Luyện từ và câu. Việc dạy luyện từ và câu nhằm mở rộng, hệ thống hóa làm phong phú vốn từ của học sinh, cung cấp cho học sinh những hiểu biết sơ giản về từ và câu, rèn cho học sinh kĩ năng dùng từ, đặt câu và sử dụng các kiểu câu để thể hiện tư tưởng, tình cảm của mình, đồng thời có khả năng sử dụng các kiểu câu của người khác nói ra trong hoàn cảnh giao tiếp nhất định. Bởi lẽ đó có thể nói rằng việc dạy luyện từ và câu cho học sinh lớp 2 là hết sức cần thiết.

Thế nhưng việc học luyện từ và câu ở trường tiểu học, đặc biệt ở học sinh lớp 2 (là lớp đầu tiên làm quen và học phân môn này) thì thật không dễ chút nào. Đối với giáo viên thì chưa có sự sáng tạo về phương pháp dạy luyện từ và câu. Về phía học sinh, vốn từ của các em còn rất hạn chế, việc tìm hiểu và sử dụng từ còn lúng túng, các em gặp nhiều khó khăn khi học tập và giao tiếp. Một số em chưa chăm chỉ học tập, chưa hứng thú tham gia vào giờ học Luyện từ và câu. Khả năng phân tích cấu trúc và vận dụng bài học vào thực tiễn còn hạn chế. Mặt khác, ta biết rằng tư duy của các em học sinh lớp 2 là tư duy cụ thể, mang tính hình thức bằng cách dựa vào đặc điểm trực quan của những đối tượng và hiện tượng cụ thể. Do đó việc dạy luyện từ và câu ở lớp 2 chủ yếu phải sử dụng đồ dùng trực quan để có cơ sở hình thành kiến thức cho các em. Tuy nhiên sử dụng đồ dùng trực quan như thế nào cho có hiệu quả? Đó là điều mà tôi luôn luôn trăn trở, vì vậy, tôi đã mạnh dạn nghiên cứu và chọn đề tài : “ Một số kinh nghiệm sử dụng đồ dùng trực quan khi dạy phân môn LT&C lớp 2, dạng bài Mở rộng vốn từ ” làm sáng kiến kinh nghiệm cho mình.

pdf 16 trang Huy Quân 29/03/2025 160
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số kinh nghiệm sử dụng đồ dùng trực quan khi dạy phân môn Luyện từ và câu Lớp 2 dạng bài “Mở rộng vốn từ ”", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Một số kinh nghiệm sử dụng đồ dùng trực quan khi dạy phân môn Luyện từ và câu Lớp 2 dạng bài “Mở rộng vốn từ ”

SKKN Một số kinh nghiệm sử dụng đồ dùng trực quan khi dạy phân môn Luyện từ và câu Lớp 2 dạng bài “Mở rộng vốn từ ”
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI 
TRƯỜNG TH NGUYỄN BÁ NGỌC 
 Mã số: ................................ 
 (Do HĐKH Sở GD&ĐT ghi) 
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 
MỘT SỐ KINH NGHIỆM SỬ DỤNG ĐỒ 
DÙNG TRỰC QUAN KHI DẠY PHÂN 
MÔN LUYỆN TỪ VÀ CÂU LỚP 2 
 DẠNG BÀI “ MỞ RỘNG VỐN TỪ ” 
 - Người thực hiện: Văn Thị Sương 
 - Lĩnh vực nghiên cứu: 
 - Quản lý giáo dục  
 - Phương pháp dạy học bộ môn: Luyện từ và câu
 - Lĩnh vực khác:  
 (Ghi rõ tên lĩnh vực) 
 Có đính kèm: Các sản phẩm không thề hiện trong bản in SKKN 
  Mô hình  Phần mềm  Phim ảnh  Hiện vật khác 
BM02-LLKHSKKN 
 SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC 
I. THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN 
 Họ và tên: Văn Thị Sương 
Ngày tháng năm sinh: 1/7/1981 
Nam, nữ: nữ 
Địa chỉ: Tổ 9, ấp Bể Bạc, xã Xuân Đông, huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai 
Điện thoại: 0613713376 (CQ) / ĐTDĐ: 0902582495 
Fax: E-mail: 
Chức vụ: Giáo viên 
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Nguyễn Bá Ngọc 
II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO 
- Học vị (hoặc trình độ chuyên môn, nghiệp vụ) cao nhất: Trung học sư 
phạm 
- Năm nhận bằng: 2002 
- Chuyên ngành đào tạo: Giáo viên Tiểu học 
III. KINH NGHIỆM KHOA HỌC 
- Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: 
 Số năm có kinh nghiệm: 
- Các sáng kiến kinh nghiệm đã có trong 5 năm gần đây: 
+ Một số biện pháp giúp học sinh có hoàn cảnh khó khăn học tốt phân 
môn chính tả lớp 2 
+ Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 2 
+ Làm thế nào để xây dựng tốt nề nếp ở lớp chủ nhiệm? 
A. PHẦN MỞ ĐẦU 
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI. 
Trong chương trình dạy ở Tiểu học môn Tiếng Việt là môn học có vị 
trí hết sức quan trọng, nó vừa là môn khoa học, vừa là môn công cụ, nó 
chiếm thời lượng lớn nhất trong tất cả các môn học. Một trong những phân 
môn của môn Tiếng Việt, hỗ trợ rất nhiều cho việc giúp học sinh nắm nghĩa 
của từ, biết dùng từ đặt câu, sử dụng các kiểu câu trong giao tiếp đó là phân 
môn Luyện từ và câu. Việc dạy luyện từ và câu nhằm mở rộng, hệ thống hóa 
làm phong phú vốn từ của học sinh, cung cấp cho học sinh những hiểu biết 
sơ giản về từ và câu, rèn cho học sinh kĩ năng dùng từ, đặt câu và sử dụng 
các kiểu câu để thể hiện tư tưởng, tình cảm của mình, đồng thời có khả năng 
sử dụng các kiểu câu của người khác nói ra trong hoàn cảnh giao tiếp nhất 
định. Bởi lẽ đó có thể nói rằng việc dạy luyện từ và câu cho học sinh lớp 2 là 
hết sức cần thiết. 
Thế nhưng việc học luyện từ và câu ở trường tiểu học, đặc biệt ở học 
sinh lớp 2 ( là lớp đầu tiên làm quen và học phân môn này) thì thật không dễ 
chút nào. Đối với giáo viên thì chưa có sự sáng tạo về phương pháp dạy 
luyện từ và câu. Về phía học sinh, vốn từ của các em còn rất hạn chế, việc 
tìm hiểu và sử dụng từ còn lúng túng, các em gặp nhiều khó khăn khi học tập 
và giao tiếp. Một số em chưa chăm chỉ học tập, chưa hứng thú tham gia vào 
giờ học Luyện từ và câu. Khả năng phân tích cấu trúc và vận dụng bài học 
vào thực tiễn còn hạn chế. Mặt khác, ta biết rằng tư duy của các em học sinh 
lớp 2 là tư duy cụ thể, mang tính hình thức bằng cách dựa vào đặc điểm trực 
quan của những đối tượng và hiện tượng cụ thể. Do đó việc dạy luyện từ và 
câu ở lớp 2 chủ yếu phải sử dụng đồ dùng trực quan để có cơ sở hình thành 
kiến thức cho các em. Tuy nhiên sử dụng đồ dùng trực quan như thế nào cho 
có hiệu quả? Đó là điều mà tôi luôn luôn trăn trở, vì vậy, tôi đã mạnh dạn 
nghiên cứu và chọn đề tài : “ Một số kinh nghiệm sử dụng đồ dùng trực 
quan khi dạy phân môn LT&C lớp 2, dạng bài Mở rộng vốn từ ” làm sáng 
kiến kinh nghiệm cho mình. 
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU: 
1. Đối tượng nghiên cứu: 
 Học sinh lớp 2ª1 Trường Tiểu học Nguyễn Bá Ngọc- Xuân Đông-Cẩm Mỹ-
Đồng Nai ( Năm học : 2011- 2012) 
2. Phạm vi nghiên cứu: 
Sử dụng đồ dùng trực quan khi dạy phân môn LT&C lớp 2, dạng bài Mở 
rộng vốn từ. 
 B. NỘI DUNG 
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN: 
 Sử dụng đồ dùng trực quan trong quá trình dạy học là con đường kết 
hợp chặt chẽ giữa cái cụ thể và cái trừu tượng, phù hợp với các đặc điểm 
nhận thức của học sinh tiểu học. Nó còn tạo điều kiện tích cực trong quá 
trình học tập của học sinh. Khi sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy Luyện 
từ và câu có nghĩa là giáo viên sử dụng tranh ảnh sách giáo khoa, tranh sưu 
tầm được giúp học sinh có cơ sở nắm được từ theo chủ đề. Ngoài ra đồ dùng 
trực quan còn giúp các em hiểu được nghĩa của từ. Các em biết dùng từ đặt 
câu dựa trên tranh ảnh cho sẵn. Những đồ dùng trực quan để dạy học bao 
gồm: 
- Tranh ảnh phục vụ kiến thức bài học. 
- Tranh ảnh sưu tầm của giáo viên và học sinh để minh hoạ cụ thể 
hơn nội dung của bài 
Bên cạnh đó, ta biết rằng trực quan trong dạy luyện từ và câu cũng chính 
là việc rèn luyện theo mẫu. Bởi lẽ, rèn luyện theo mẫu là thông qua những 
mẫu cụ thể về lời nói hoặc mô hình lời nói, giáo viên hướng dẫn học sinh 
tìm hiểu đặc điểm của mẫu, cơ chế tạo mẫu, biết cách tạo ra những lời nói 
theo định hướng của mẫu. Mẫu là một phương tiện để “ thi phạm hóa”, học 
sinh tiếp nhận ngôn ngữ không phải chỉ bằng cách quan sát mẫu một cách 
tường minh. Mẫu thị giác, mẫu thính giác được dùng đồng thời hoặc đan 
xen. Tùy thuộc vào đối tượng nhận thức trong từng trường hợp cụ thể mà 
chọn mẫu cho phù hợp. Đối tượng nghiên cứu của Luyện từ và câu lớp 2 là 
từ ngữ, câu. ( Trích tài liệu: Phương pháp dạy học các môn ở Tiểu học- 
Nhà xuất bản Giáo dục- Bộ Giáo dục và Đào tạo) . Do đó, bên cạnh vật thật, 
tranh vẽ,  như người ta vẫn thường quan niệm về đồ dùng trực quan trong 
giờ học, trực quan trong giờ dạy Luyện từ và câu còn được hiểu là sử dụng 
những ngữ liệu( lời nói, chữ viết) để học sinh được trực quan những câu, 
những từ. 
Trong các giai đoạn khác nhau của dạy Luyện từ và câu, cần phải sử 
dụng trực quan với mục đích khác nhau: giai đoạn đầu, khi cho học sinh tiếp 
xúc với các dấu hiệu của khái niệm, trực quan phải được sử dụng với mục 
đích truyền đạt rõ ràng những dấu hiệu của hiện tượng nghiên cứu trong sự 
biểu hiện cụ thể của nó trong lời nói. Phải chọn tài liệu trực quan sao cho 
chúng thể hiện rõ đặc điểm ngữ pháp của hiện tượng được nghiên cứu. Có 
như vậy, trực quan mới giúp học sinh có khả năng trừu tượng hóa dấu hiệu 
của khái niệm, nhận biết ra hiện tượng nghiên cứu giữa những hiện tượng 
khác tương tự như chúng. Khi ngữ liệu không tiêu biểu, nghĩa là không 
truyền đạt rõ ràng dấu hiệu của hiện tượng nghiên cứu thì bị xem là không 
đảm bảo nguyên tắc trực quan. 
 ( Trích tài liệu: Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học II- Giáo 
trình dành cho hệ đào tạo cử nhân Giáo dục Tiểu học- Nhà xuất bản Đại 
học sư phạm- GS.TS. Lê Phương Nga) 
II.PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG: 
1. Thuận lợi: 
 - Nhà trường: 
 + Nhà trường thường mở các chuyên đề để giáo viên dự giờ, trao đổi 
kinh nghiệm lẫn nhau. Trong các buổi sinh hoạt chuyên môn trường, đều tạo 
điều kiện cho giáo viên trao đổi tháo gỡ những vướng mắc trong chuyên 
môn. 
+ Một số tranh ảnh trực quan để phục vụ cho các bài Luyện Từ & Câu 
ở lớp 2 đã có sẵn ở thư viên: Tranh các chim, loài cá, thú 
 - Học sinh: 
 +Các em học sinh có đủ SGK, vở bài tập, đồ dùng học tập phục vụ 
cho môn học. 
 +Phần lớn phụ huynh quan tâm đến việc học của con em mình. 
2. Khó khăn: 
- Giáo viên : 
 + Phân môn Luyện Từ & Câu là phân môn mà học sinh lớp 2 vừa 
được làm quen, nên giáo viên gặp nhiều khó khăn khi lựa chọn các hình thức 
dạy học phù hợp với các em. 
 + Giáo viên đã có nhiều cố gắng trong việc đổi mới phương pháp dạy 
học nhưng đôi khi cũng ngại không dám thoát li các gợi ý của sách giáo 
khoa, sách hướng dẫn vì sợ sai. 
 + Đối với một số giáo viên do sử dụng đồ dùng dạy học nói chung và 
đồ dùng trực quan nói riêng chưa được thường xuyên, nên việc sử dụng còn 
nhiều lúng túng. 
- Học sinh: 
 + Học sinh lớp hai vốn từ của các em rất hạn chế, các em còn lúng 
túng khi dùng từ, đặt câu. 
 + Tư duy của các em chủ yếu dựa vào đặc điểm trực quan. Thế nhưng, 
ở một số dạng bài tập không có tranh ảnh trực quan nên học sinh lúng túng, 
gặp nhiều khó khăn, thậm chí không làm được các bài tập này. 
+ Một số em chưa hứng thú, chưa tích cực tham gia vào giờ học Luyện 
từ và câu. 
 Bảng thống kê điểm kiểm tra trước tác động ( Trước khi thực hiện đề 
tài- Học kì I) 
 Lớp 
 Số 
HS 
 Điểm/ Số học sinh đạt điểm Tổng 
 số 
điểm 
Đểm 
trung 
bình 
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 
Lớp 2A1 
(lớpthực nghiệm)
25 1 2 2 1 6 6 3 2 2 0 136 5.44 
Lớp 2A2 
( lớp đối chứng) 
25 2 1 1 3 6 4 4 2 2 135 5.4 
III. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN ĐỀ TÀI: 
 Dạy LT&C phương pháp chủ yếu là thực hành. Thông qua hệ thống 
bài tập giúp học sinh rút ra kiến thức cảu bài học. Nhưng không phải bài tập 
nào cũng áp dụng như nhau. Do đó, tôi đã nghiên cứu và áp dụng một số 
kinh nghiệm sử dụng đồ dùng trực quan khi dạy LT&C ở dạng bài “ Mở 
rộng vốn từ” bằng cách phân loại các bài tập theo các dạng cơ bảng sau: 
1.Loại bài tập dạy nghĩa từ : 
Đây là loại bài tập có vị trí chủ đạo, bao trùm trong nội dung luyện từ 
và câu lớp 2. Dạy “ Mở rộng vốn từ có nghĩa là giáo viên hướng dẫn các em 
mở rộng vốn từ và phát triển vốn từ theo các trường nghĩa. Các em vận 
dụng vốn hiểu biết của mình và sự dẫn dắt cảu giáo viên để có thể gọi tên 
các từ xung chủ điểm mà sách giáo khoa yêu cầu. 
 Khi dạy kiểu bài này, tôi sử dụng phương pháp trực quan làm chỗ 
dựa cho việc tìm từ qua các bài dạy “ Mở rộng vốn từ qua tranh vẽ” giáo 
viên tổ chức cho các em quan sát tranh theo nhóm, sau đó thi đua giữa các tổ 
gọi tên các từ đúng với nội dung tranh. Đôi khi quan sát tranh học sinh còn 
phải tưởng tượng để tìm từ thích hợp. Đối với những dạng bài tập này, giáo 
viên cần biết khai thác triệt để kênh hình ở SGK, hình ảnh giáo viên và học 
sinh sưu tầm được để phục vụ cho tiết dạy. Người giáo viên cũng có thể thiết 
kế các nội dung này trên máy chiếu và thực hiện ứng dụng công nghệ thông 
tin trong một phần của tiết dạy để giúp học sinh quan sát, như thế vừa không 
mất thời gian gắn tranh, tìm tranh, tiện lợi lại vừa có thể sử dụng trong nhiều 
năm. Việc ứng dụng công nghệ thông tin tr

File đính kèm:

  • pdfskkn_mot_so_kinh_nghiem_su_dung_do_dung_truc_quan_khi_day_ph.pdf