SKKN Một số biện pháp hướng dẫn và thúc đẩy quá trình tự học cho học sinh yếu và cá biệt trong lớp chủ nhiệm
Bồi dưỡng năng lực tự học cho học sinh là điều rất quan trọng và cần thiết
trong điều kiện hiện nay. Thật vậy, thời gian tự học là lúc các em có điều kiện tự
nghiền ngẫm vấn đề học tập theo một yêu cầu, phong cách riêng và với tốc độ
thích hợp. Điều đó không chỉ giúp các em nắm vấn đề một cách chắc chắn, bền
vững, bồi dưỡng phương pháp học tập và khả năng vận dụng tri thức, mà còn là
dịp tốt để các em rèn luyện ý chí và năng lực hoạt động sáng tạo.
Trong thời đại mà khoa học, kĩ thuật phát triển nhanh chóng như hiện nay,
nhà trường dù tốt đến mấy cũng không đáp ứng được nhu cầu đa dạng và đang
phát triển của cuộc sống. Vì vậy, chỉ có tự học, tự bồi dưỡng mỗi người mới có thể
bù đắp được cho mình những lỗ hổng về kiến thức để thích ứng với yêu cầu cuộc
sống đang phát triển.
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Một số biện pháp hướng dẫn và thúc đẩy quá trình tự học cho học sinh yếu và cá biệt trong lớp chủ nhiệm

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP HƯỚNG DẪN VÀ THÚC ĐẨY QUÁ TRÌNH TỰ HỌC CHO HỌC SINH YẾU VÀ CÁ BIỆT TRONG LỚP CHỦ NHIỆM I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Bồi dưỡng năng lực tự học cho học sinh là điều rất quan trọng và cần thiết trong điều kiện hiện nay. Thật vậy, thời gian tự học là lúc các em có điều kiện tự nghiền ngẫm vấn đề học tập theo một yêu cầu, phong cách riêng và với tốc độ thích hợp. Điều đó không chỉ giúp các em nắm vấn đề một cách chắc chắn, bền vững, bồi dưỡng phương pháp học tập và khả năng vận dụng tri thức, mà còn là dịp tốt để các em rèn luyện ý chí và năng lực hoạt động sáng tạo. Trong thời đại mà khoa học, kĩ thuật phát triển nhanh chóng như hiện nay, nhà trường dù tốt đến mấy cũng không đáp ứng được nhu cầu đa dạng và đang phát triển của cuộc sống. Vì vậy, chỉ có tự học, tự bồi dưỡng mỗi người mới có thể bù đắp được cho mình những lỗ hổng về kiến thức để thích ứng với yêu cầu cuộc sống đang phát triển. Như vậy, tự học là một trong những phẩm chất quan trọng nhất mà nhà trường hiện đại cần trang bị cho học sinh, vì nó có ích không chỉ khi các em còn ngồi trên ghế nhà trường mà cả khi đã bước vào cuộc sống. Trong trường học, để quản lí lớp học, nhà trường cử ra một trong những giáo viên giảng dạy có đủ tiêu chuẩn làm công tác chủ nhiệm. Giáo viên chủ nhiệm phải là người: có năng lực chuyên môn tốt, có kinh nghiệm, tinh thần trách nhiệm và nhiệt tình làm công tác giáo dục, quản lí học sinh, có uy tín với học sinh và tập thể sư phạm. Giáo viên chủ nhiệm lớp do hiệu trưởng phân công và thay mặt hiệu trưởng để quản lí và tổ chức các hoạt động giáo dục học sinh. Giáo viên chủ nhiệm là người tổ chức quản lý lớp học, dìu dắt học sinh như con em của mình trưởng thành qua từng năm tháng. Giáo viên chủ nhiệm là chất keo kết dính tạo nên sự đoàn kết thân ái giữa các thành viên trong lớp học. Sự tận tụy, trách nhiệm và kĩ năng chủ nhiệm tốt, giáo viên chủ nhiệm sẽ tạo nên một tập thể lớp vững mạnh, chất lượng giáo dục cao và được học sinh yêu thương, quí trọng. Trên thực tế, công tác chủ nhiệm của giáo viên không phải lúc nào cũng thành công. Mỗi trường học, mỗi lớp học, luôn tồn tại một số lượng không nhiều học sinh có năng lực học tập yếu và có ý thức kỉ luật kém và thường được gọi là học sinh cá biệt. Với những lớp học có học sinh yếu và cá biệt, giáo viên có kĩ năng chủ nhiệm yếu, thường rất vất vả trong công tác quản lí, giáo dục các em. Các em thường có biểu hiện ngỗ ngược không vâng lời, không chấp hành nội qui nhà trường, có thái độ học tập không nghiêm túc, đôi lúc còn lôi kéo những học sinh trong lớp và lớp khác quậy phá để chứng tỏ mình Những học sinh này làm ảnh hưởng không nhỏ đến nền nếp, chất lượng học tập chung của lớp và của nhà trường. Có thể nhận thấy, trong thời gian gần đây, số học sinh cá biệt đang có xu hướng ngày càng gia tăng. Qua mỗi năm học, kết quả học tập của những học sinh này phần lớn nằm ở mức yếu hoặc kém. Tuy nhà trường cùng giáo viên chủ nhiệm kết hợp với cha mẹ học sinh đã đưa ra nhiều biện pháp uốn nắn, giáo dục và thúc đẩy qua trình học tập của các em, nhưng nhìn chung vẫn chưa đạt được những kết quả như mong đợi. Trước những thực tế nêu trên, với vai trò của người quản lí giáo dục và cũng từng là giáo viên đạt những thành công trong công tác chủ nhiệm, tôi mạnh dạn đề xuất sáng kiến kinh nghiệm với đề tài: “Một số biện pháp hướng dẫn và thúc đẩy quá trình tự học đối với học sinh yếu, cá biệt trong lớp chủ nhiệm” II. TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI 1. Cơ sở lí luận 1.1. Những quan niệm về tự học và vấn đề hình thành năng lực tự học cho học sinh trong nhà trường phổ thông. 1.1.1. Quan niệm về tự học Con người ta ngay khi sinh ra đã phải tự học, tự học để nhận biết thế giới xung quanh, tự học để tồn tại và phát triển. Khổng Tử cho rằng cách học như thế nào quan trọng như học cái gì, học không chỉ ở trường còn học ở bạn bè “Tam nhân đồng hành, tất hữu ngã sư” (trong 3 người đi cùng, tất có thầy ta trong đó) Cha ông ta từ xưa cũng luôn đặt tự học làm trọng. Người đã kế thừa và phát huy cao nhất truyền thống đó là Bác Hồ. Bác đã từng căn dặn: “Còn sống thì còn phải học, còn phải hoạt động cách mạng”. Theo Người tự học chính là sự nỗ lực của bản thân người học, sự làm việc của bản thân người học một cách có kế hoạch trên tinh thần tự giác học tập. Người cho rằng trong tự học, ý chí tự học tập và sự sáng tạo là đều vô cùng quan trọng. Cũng bàn về tự học, Chu Mạnh Nguyên cho rằng: “Tự học, tự nghiên cứu là một quá trình trong đó mỗi người tự suy nghĩ, tự sử dụng các năng lực trí tuệ và các phẩm chất của bản thân, tự khai thác vận dụng những điều kiện vật chất có thể để biến một kiến thức nào đó của người khác (của nhân loại) thành kiến thức sở hữu của mình, vận dụng một kiến thức nào đó của người khác để làm cho công việc của bản thân có hiệu quả hơn”. Trong bộ sách: “Tuyển tập tác phẩm tự giáo dục, tự học, tự nghiên cứu” gồm 2 tập, GS. Nguyễn Cảnh Toàn, người có nhiều tâm huyết với vấn đề tự học đã đưa ra một quan niệm về tự học có thể xem là hoàn chỉnh: “Tự học là tự mình dùng các giác quan để thu nhận thông tin rồi tự mình động não, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp) và có khi cả cơ bắp (phải sử dụng các công cụ) cùng các phẩm chất của mình, rồi cả động cơ, tình cảm, cả nhân sinh quan, thế giới quan để chiếm lĩnh cho được một lĩnh vực hiêu biết nào đó, một số kỹ năng nào đó, một số phẩm chất nào đó của nhân loại hay cộng đồng biến chúng thành sở hữu của mình. Phát minh ra cái mới cũng có thể coi là một hình thức tự học cao cấp”. Theo GS. Có 3 cấp độ tự học: - Tự học dưới sự hướng dẫn của thầy, giáp mặt thầy một số tiết trong ngày, trong tuần. - Tự học có hướng dẫn của thầy nhưng không giáp mặt thầy mà nhận được sự giúp đỡ của thầy từ xa. - Tự học không có sự hướng dẫn của thầy. Người học tự đọc sách giáo khoa, tài liệu thông qua đó mà tự hiểu, tự thấm các kiến thức trong sách. Như vậy “tự học” là cả một quá trình con người vượt qua hoàn cảnh và vượt qua chính mình, tự vận dụng tất cả ý chí nghị lực, phẩm chất tư duy, phẩm chất nhân cách, tâm hồn, bản lĩnh văn hóa, mục đích sống, khát vọng sống của bản thân để vượt qua mọi khó khăn, tự so sánh, đối chiếu, tự phê bình, tự sửa chữa để chiếm lĩnh tri thức. Tự học được diễn ra mọi nơi, mọi lúc, học ở mọi người và bằng mọi cách. Hiệu quả của việc tự học được đánh giá bởi chính hiệu suất và hiệu quả công việc của từng người. Việc tự học được thực hiện ở những mức độ khác nhau tùy thuộc vào mục đích và khả năng tiếp thu, hoàn cảnh và thời gian của từng người không ai giống ai. Tuy nhiên, tất cả mọi người tự học đều nhằm đến mục đích biết được càng nhiều càng tốt để nâng mình lên đến một trình độ cao hơn, phục vụ công việc của mình thuận lợi và có hiệu quả hơn. Thế giới đang bước vào thế kỉ XXI, thế kỉ của thông tin, của khoa học và công nghệ hiện đại, bất cứ ai, ở bất cứ địa vị và vị trí nào trong xã hội cũng đều phải tự học, bởi chỉ có như vậy mỗi người mới tồn tại, tự đứng vững trên đôi chân của mình và góp phần thúc đẩy xã hội phát triển. 1.1.2. Vấn đề hình thành năng lực tự học cho học sinh trong nhà trường phổ thông. Tự học của học sinh THPT luôn gắn liền với năng lực chủ động tích cực, học sinh phải tự nghiên cứu tài liệu, tự mình phát hiện kiến thức, nắm bắt kiến thức, tự mình biết vận dụng chuyển hóa kiến thức bài học dưới sự dẫn dắt, định hướng của giáo viên. Tự học của học sinh THPT chỉ mới dừng ở cấp độ một nhưng đây chính là cơ sở, là nền móng vững chắc cho kinh nghiệm tự học, tự nghiên cứu ở mức độ cao sau này. Phạm vi kiến thức tự học của học sinh THPT trước hết thuộc chương trình sách giáo khoa phổ thông và những tài liệu liên quan “Đối với học sinh tự học, tự nghiên cứu phải dựa trên cơ sở của việc học và nắm vững một hệ thống kiến thức cơ bản, đồng thời được trang bị để nắm được cách học và cách nghiên cứu, có kỹ năng học nghiên cứu, tiến tới có kỹ xảo và thói quen tự học, tự nghiên cứu, vì vậy ở đây vai trò của các nhà giáo dục trực tiếp hơn, cần thiết hơn”. Theo Nguyễn Kỳ, “tự học” của học sinh THPT có bốn đặc trưng cơ bản: - Người học tự tìm kiến thức bằng chính hành động của mình. - Người học tự thể hiện mình. - Người thầy hướng dẫn tổ chức cho trò tự nghiên cứu. - Người học tự đánh giá, tự kiểm tra, tự sửa chữa, tự điều chỉnh, tự hoàn thiện đồng thời tự rút kinh nghiệm về cách học, cách giải quyết vấn đề của mình. Như vậy, quá trình tự học của học sinh có thể chia ra làm 3 giai đoạn: Giai đoạn 1: Hướng dẫn thông qua những tình huống và đề ra những nhiệm vụ học tập cho học sinh. Giai đoạn 2: Tổ chức các hoạt động trao đổi thảo luận, thuyết trình. . . Giai đoạn 3: Làm trọng tài kiểm tra đánh giá nhận thức của học sinh. Như vậy, nói đến vấn đề tự học của học sinh THPT không phải là nói tới một vấn đề gì cao siêu khó thực hiện. Tự học của học sinh không đòi hỏi mức độ cao như tự học của một nhà nghiên cứu. Tự học của các em chủ yếu dựa vào các bài học cụ thể trong sách giáo khoa, những tài liệu có liên quan đến bài học để đối chiếu, so sánh mở rộng làm cho quá trình nhận thức của các em mang tính chủ động và có tính chất nghiên cứu. Quan trọng hơn việc tự học của học sinh được hình thành và rèn luyện dưới sự hướng dẫn định hướng của giáo viên. Mục đích “tự học” của học sinh THPT là làm sao giúp các em hiểu sâu sắc trọn vẹn bài học bằng chính năng lực của mình và biết vận dụng nó như một “kinh nghiệm” của bản thân. Đây chính là yêu cầu hàng đầu cần đặt ra trong quá trình học tập của học sinh. Điểm mấu chốt để rèn luyện cho học sinh một năng lực tự học tốt trong mỗi giờ học, yêu cầu người giáo viên phải biết cách hướng dẫn các em tự học từ mức độ thấp đến mức độ cao để khi rời ghế nhà trường các em có được một năng lực tự học hoàn thiện. 1.2. Học sinh cá biệt và nguyên nhân phát sinh học sinh cá biệt 1.
File đính kèm:
skkn_mot_so_bien_phap_huong_dan_va_thuc_day_qua_trinh_tu_hoc.pdf