SKKN Lồng ghép kĩ năng sống trong giảng dạy Ngữ Văn ở Trường THPT

Trong xã hội hiện nay với sự phát triển nhanh chóng về các lĩnh vực kinh tế , xã hội, sự hội nhập quốc tế đã và đang tạo ra những tác động phức tạp ảnh hưởng đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách của thế hệ trẻ. Đặc biệt là thời gian qua tình trạng đạo đức của một bộ phận thanh thiếu niên trong đó có cả học sinh đang bị xuống cấp, các vụ bạo hành xảy ra đã gây nhiều bức xúc trong xã hội. Thực trạng trên cũng ảnh hưởng không nhỏ đến học sinh của trường THPT Long Phước. Một trong những nguyên nhân khiến nhiều học sinh bị lôi kéo vào vấn đề này chính là do các em còn yếu về kĩ năng sống.

Trước thực trạng trên, trong những năm qua Bộ giáo dục đã có nhiều nỗ lực để đổi mới phương pháp dạy học nhằm tích cực hóa hoạt động của học sinh, gắn giáo dục với thực tiễn cuộc sống. Lồng ghép kĩ năng sống vào các môn học cũng không ngoài mục tiêu đổi mới trên. Xuất phát từ những lí do trên, là một giáo viên dạy văn, tôi luôn luôn có tâm nguyện mong muốn giúp học sinh của mình có khả năng thích ứng với cuộc sống mới, biết tự chủ, sống có bản lĩnh có nhân cách; Đây là lí do tôi đi sâu tìm hiểu và thực hiện đề tài “ Lồng ghép kĩ năng sống trong giảng dạy ngữ văn”

pdf 11 trang Huy Quân 01/04/2025 360
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Lồng ghép kĩ năng sống trong giảng dạy Ngữ Văn ở Trường THPT", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Lồng ghép kĩ năng sống trong giảng dạy Ngữ Văn ở Trường THPT

SKKN Lồng ghép kĩ năng sống trong giảng dạy Ngữ Văn ở Trường THPT
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 
LỒNG GHÉP KĨ NĂNG SỐNG TRONG 
GIẢNG DẠY 
NGỮ VĂN Ở TRƯỜNG THPT 
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI 
Trong xã hội hiện nay với sự phát triển nhanh chóng về các lĩnh vực kinh tế , xã hội, 
sự hội nhập quốc tế đã và đang tạo ra những tác động phức tạp ảnh hưởng đến quá trình 
hình thành và phát triển nhân cách của thế hệ trẻ. 
Đặc biệt là thời gian qua tình trạng đạo đức của một bộ phận thanh thiếu niên trong 
đó có cả học sinh đang bị xuống cấp, các vụ bạo hành xảy ra đã gây nhiều bức xúc trong 
xã hội. 
Thực trạng trên cũng ảnh hưởng không nhỏ đến học sinh của trường THPT Long 
Phước. Một trong những nguyên nhân khiến nhiều học sinh bị lôi kéo vào vấn đề này 
chính là do các em còn yếu về kĩ năng sống. 
Trước thực trạng trên, trong những năm qua Bộ giáo dục đã có nhiều nỗ lực để đổi 
mới phương pháp dạy học nhằm tích cực hóa hoạt động của học sinh, gắn giáo dục với 
thực tiễn cuộc sống. Lồng ghép kĩ năng sống vào các môn học cũng không ngoài mục 
tiêu đổi mới trên. 
Xuất phát từ những lí do trên, là một giáo viên dạy văn, tôi luôn luôn có tâm nguyện 
mong muốn giúp học sinh của mình có khả năng thích ứng với cuộc sống mới, biết tự chủ, 
sống có bản lĩnh có nhân cách ...; Đây là lí do tôi đi sâu tìm hiểu và thực hiện đề tài “ Lồng 
ghép kĩ năng sống trong giảng dạy ngữ văn” 
II. THỰC TRẠNG TRƯỚC KHI THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP CỦA ĐỀ TÀI 
1. THUẬN LỢI 
 Chưa bao giờ cả xã hội lại có tiếng nói chung bức thiết mong muốn đổi mới nền giáo 
dục như hiện nay, cũng chưa bao giờ ngành giáo dục ý thức rõ cần phải truyền đạt các kĩ 
năng sống cho học sinh trong thời kì hội nhập như bây giờ. 
Bản thân cũng đã có nhiều năm giảng dạy bộ môn văn. 
Mác – xim Gor- ki nói “ Văn học là nhân học”. Dạy văn cũng là dạy các em HS 
làm người, con người có khả năng thích ứng , hội nhập tốt với xã hội hiện đại. Đây là 
những điều kiện thuận lợi để GV thực hiện đề tài. 
2. KHÓ KHĂN 
Thời gian dạy 1 tiết rất ngắn nên việc lồng ghép cũng chỉ trong một thời gian hạn 
hẹp, vậy GV khó kết hợp lồng ghép được nếu không khéo léo. 
Học sinh có tình trạng học lệch nên các em cũng ít đầu tư vào môn văn. 
Đa số HS yếu về cảm thụ văn học nên khó có khả năng rút ra bài học kĩ năng sống cho 
bản thân, vì vậy GV phải dẫn dắt để các em hiểu. 
Học sinh của trường đa số xuất thân từ nông thôn nên khả năng thích ứng với xã hội hện 
đại của các em còn yếu. 
3. SỐ LIỆU THỐNG KÊ 
Tôi đã cho HS một số câu hỏi điều tra sơ bộ kĩ năng sống của ba lớp dạy (127 HS) và 
đã thu nhận được kết quả như sau: 
 Câu 1:Qua các phương tiện thông tin đại chúng và qua một số giờ dạy hướng nghiệp 
của thầy cô, em hiểu thế nào là kĩ năng sống? 
 Không hiểu gì : 40 em 
 Hiểu sơ sài : 60 em 
 Hiểu gần đúng : 11 em 
 Hiểu đúng : 6 em 
 Câu 2 : Trong xã hội hiện nay,việc lồng ghép dạy kĩ năng sống cho HS qua các môn 
học trong đó có môn văn là cần thiết, em đồng ý với ý kiến nào ? 
A Đồng ý hoàn toàn :55 em C Đồng ý một nửa : 47 em 
B Không đồng ý : 10 em D Không có ý kiến gì 15 em 
Dựa trên số liệu thống kê, tôi nhận thấy các em HS có nhu cầu mong muốn thầy 
cô giáo dục, dạy các em kĩ năng sống, song do nhiều điều kiện chủ quan và khách quan 
các em còn hiểu không đầy đủ về khái niệm này. 
III. NỘI DUNG ĐỀ TÀI 
1. CƠ SỞ LÍ LUẬN 
 Theo thống kê của các nhà tâm lí học, để đạt thành công trong cuộc sống kĩ 
năng mềm( trí tuệ cảm xúc) còn gọi là kĩ năng sống chiếm 85%, kĩ năng cứng( trí tuệ 
lô-gic) chỉ chiếm 15%. Vì vậy dạy học nói chung, dạy văn nói riêng phải tăng cường 
dạy kĩ năng sống cho HS. 
 Vậy kĩ năng sống là gì? 
 Có nhiều quan niệm về KNS, mỗi quan niệm diễn đạt theo một cách khác nhau, 
thường gắn với một bối cảnh cụ thể, với một nền giáo dục nhất định. Trog bài này tôi sử 
dụng quan niệm của UNESCO . 
 Kĩ năng sống là khả năng tâm lí xã hội, nội dung bao gồm tri thức, thái độ, 
giá trị và kĩ năng giúp con người giải quyết có hiệu quả những tình huống , những vấn 
đề đáp ứng hoạt động của cuộc sống một cách tích cực.(Hội thảo khoa học tiếp tục đổi 
mới quản lí giáo dục và nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo các tỉnh phía Nam). 
 Chúng ta biết rằng các em HS không phải là những chiếc bình cần đổ đầy kiến 
thức mà các em là những ngọn đuốc cần thắp sáng, vậy hơn ai hết GV dạy văn cần phải 
cố gắng giữ và thổi bùng ngọn lửa ấy trong tâm hồn các em. Thông qua các giờ dạy, GV 
sẽ giúp cho HS có những khả năng tâm lí xã hội, những bài học thiết thực gắn với đời 
sống để các em biết cách ứng xử, ứng phó, thể hiện mình và trau dồi nhân cách, biết 
sống hữu ích, tránh những va vấp trong cuộc đời. 
1. NỘI DUNG , BIỆN PHÁP THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP CỦA ĐỀ TÀI 
a PHÂN MÔN GIẢNG VĂN 
 Lồng ghép kĩ năng sống qua cách giới thiệu bài 
 Đây là khâu đầu tiên của một giờ giảng văn, nó vừa có vai trò khởi động giờ 
học, tạo không khí, vừa tạo ấn tượng cho học sinh. Vì thế một cách giới thiệu bài 
bất ngờ sẽ có tác động rất lớn đến tư tưởng, tình cảm của các em. Dựa vào đặc điểm 
này chúng ta có thể kết hợp lồng ghép một số kĩ năng sống vào một số bài bằng 
nhiều hình thức hấp dẫn như: 
 Ví dụ 1: Bài Mời trầu ( Hồ xân Hương): 
GV chuẩn bị sẵn hai- ba gói quà nhỏ, khi vào lớp GV giơ các gói quà lên và nói “Cô 
có ba gói quà muốn tặng tặng ba em HS xứng đáng nhất trong lớp, em nào xung phong 
lên nhận ?”( Với tính cách của các em HS ở nông thôn, GV dự đoán các em không dám 
thể hiện mình).GV hỏi lại “ Vậy các em có thích món quà này không? Cả lớp sẽ hô “có”. 
 GV nói : Vậy tại sao các em không mạnh dạn lên nhận quà? Rất nhiều em trong lớp 
chúng ta học tốt, đạo đức tốt có quyền nhận món quà cô tặng mà lại e ngại, không dám 
thể hiện mình, lại che dấu cái tôi của mình. Đấy cũng là điểm yếu không chỉ của các em 
mà còn của thanh niên Việt Nam nói chung và chúng ta cần phải kiên quyết thay đổi 
cách suy nghĩ đó ngay bây giờ các em ạ. Vậy mà cách chúng ta hơn 200 năm, có một 
người phụ nữ đã đường đường xưng danh, dám thể hiện mình và không chỉ mời trầu mà 
còn mời duyên giữa xã hội phong kiến, đó chính là nữ sĩ Hố Xuân Hương trong bài Mời 
trầu. Hôm nay, cô sẽ cùng các em tìm hiểu bài Mời trầu nhé! 
 Ví dụ 2: Bài Chí Phèo ( Nam Cao) 
GV cho HS viết vào một tờ giấy nhỏ, em hãy cố gắng tìm và ghi lại những nét tính 
cách đáng yêu nhất của người em không thích. GV thu lại và xem lướt qua. Chắc chắn 
em nào cũng cố ghi lại ít nhất là một nét tính cách đáng yêu của người mà em ghét. 
Từ đó GV dẫn dắt, ngay cả những người chúng ta tưởng như không thể dung hòa 
được vẫn có những cái tốt. Vậy mỗi ngày, chúng ta hãy cố gắng tìm thấy cái tốt của 
người khác để biết chung sống hòa hợp với nhau, đời sẽ đẹp hơn. Cũng trên quan điểm 
nhân văn ấy, nhà văn Nam Cao đã đem đến cho văn học Việt Nam một nhân vật độc đáo: 
Chí Phèo. Con người tưởng như mất hết tính người ấy vẫn khao khát mong muốn trở về 
với cuộc sống lương thiện. Để hiểu thêm nhân vật và tác phẩm , chúng ta cùng nhau tìm 
hiểu tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao. 
 Lồng ghép kĩ năng sống qua các chi tiết, hình ảnh, nội dung bài giảng văn 
Mỗi chi tiết trong tác phẩm tự sự, mỗi hình ảnh trong tác phẩm trữ tình và nội dung 
nói chung của các tác phẩm văn học đều chở trên mình nó những giá trị thẩm mĩ và tư 
tưởng mà tác giả muốn gửi gắm đến người đọc một thông điệp nào đó. Tùy vào thời 
gian, vào kinh nghiệm của GV, tùy vào đối tượng HS, GV có thể khai thác ở các khía 
cạnh khác nhau để rèn luyện kĩ năng sống cho các em . 
 Ví dụ 1: Bài Nhàn ( Nguyễn Bỉnh Khiêm) 
Mở đầu bài thơ, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã nói đến cách sống nhàn tản, vui thú với 
điền viên như một lão nông tri điền của mình. Nhà thơ thật thông tuệ khi chủ động dứt 
khoát tìm cho mình một cách sống “ nhàn một ngày là tiên một ngày”, xa lánh chốn quan 
trường đua chen danh lợi, tìm sự thư thái của tâm hồn trong thời buổi nhiễu nhương. 
Ngày nay, với sự phát triển nhanh chóng của xã hội, mọi người đều cuốn theo dòng chảy 
hối hả của công việc, phải đối mặt với nhiều vấn đề phức tạp của cuộc sống, cách sống 
của cụ trạng Trình vui thú với điền viên, thân thiện với thiên nhiên cũng là một cách sống 
đẹp ta nên học tập để cân bằng trạng thái, giảm bớt áp lực công việc, tránh rơi vào stress, 
tích lũy thêm năng lượng để học tập và làm việc tốt hơn. 
 Ví dụ 2: Bài Trao duyên ( Truyện Kiều) 
GV bình thêm về bi kịch tình yêu của Thúy Kiều: Trong bi kịch tình yêu của Kiều 
và Kim Trọng, người chịu nhiều đau khổ và hi sinh nhất là Kiều nhưng nàng không nghĩ 
đến bản thân mình mà chỉ nghĩ đến Kim Trọng . Kiều đã quên mình để nghĩ tới người 
khác, đó là một sự hi sinh cao qúy trong tình yêu. Nàng đã cho đi và không nghĩ mình 
được nhận lại rất nhiều. Đoạn thơ đã đem đến cho chúng ta bài học thật ý nghĩa trong 
cuộc sống . Đó là bài học cho và nhận Qua đó Gv sẽ lồng ghép cho HS bài học “ Sống 
là cho đâu chỉ nhận riêng mình” và biết hi sinh bởi chỉ khi nào biết hi sinh thì mới biết 
yêu ( Tình yêu ở đây không giới hạn trong tình yêu đôi lứa ). 
  Ví dụ 3: Bài Nỗi thương mình ( Truyện Kiều ) 
GV bình thêm về nhân cách của Kiều: Bị rơi vào nghịch cảnh phải tiếp khách ở lầu 
xanh, Kiều vô cùng đau đớn nhục nhã ê chề. Điều đó càng chứng tỏ nhân cách cao quý 
của nàng. Câu chuyện cách chúng ta đã hơn hai thế kỉ, vậy mà đáng buồn thay, ngày nay 
nhiều người con gái sẵn sàng bán rẻ nhân phẩm của mình một cách dễ dàng chỉ vì tiền. 
Mỗi chúng ta phải biết bảo vệ phẩm giá của mình, biết tôn trọng mình, không được đánh 
mất mình dù ở trong bất kì hoàn cảnh nào.GV giúp HS biết cách tự bảo vệ phẩm giá 
của mình ở trong mọi hoàn cảnh. 
 Ví dụ 4 : Bài Bài ca ngắn đi trên bãi cát ( cao Bá Quát ) 
Hình ảnh “Anh đứng làm chi trên bãi cát ? ”Nhân vật trữ tình tự hỏi mình đồng thời 
cũng tìm câu trả lời. Trên con đường tìm kiếm công danh, nhân vật trữ tình đã nhận ra 
cái bả phù phiếm ấy và đang khao khát tìm ra con đường đi mới. Câu thơ báo hiệu sự 
thay đổi trong nhận thức của Cao Bá Quát dẫn đến những hành động phản kháng mãnh 
mẽ của nhà thơ với xã hội sau này. Từ đó

File đính kèm:

  • pdfskkn_long_ghep_ki_nang_song_trong_giang_day_ngu_van_o_truong.pdf