SKKN Lời văn nghệ thuật trong Vợ Nhặt - Kim Lân và Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài

Đọc – Hiểu văn bản văn học là khâu rất quan trọng trong quá trình

Dạy - Học Văn ở trường Trung học phổ thông. Đặc biệt, về phía giáo

viên Ngữ văn tôi luôn trăn trở làm sao giúp học sinh của mình tiếp cận

văn bản một cách hiệu quả nhất. Qua thực tế chấm bài kiểm tra, bài thi

môn của học sinh, tôi nhận thấy: bài làm của các em về văn bản tự sự

(trong phần nghị luận văn học) thường chỉ kể lan man, dài dòng, không đi

vào trọng tâm nên không đạt điểm cao. Bởi vì các em thường không nắm

được cốt truyện, chủ đề tư tưởng nghệ thuật, tình huống truyện, hình

tượng nghệ thuật, lời văn nghệ thuật của các văn bản tự sự học trong

chương trình.

pdf 25 trang Huy Quân 01/04/2025 120
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Lời văn nghệ thuật trong Vợ Nhặt - Kim Lân và Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Lời văn nghệ thuật trong Vợ Nhặt - Kim Lân và Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài

SKKN Lời văn nghệ thuật trong Vợ Nhặt - Kim Lân và Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 
LỜI VĂN NGHỆ THUẬT TRONG 
VỢ NHẶT - KIM LÂN VÀ VỢ 
CHỒNG A PHỦ - TÔ HOÀI 
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI: 
Đọc – Hiểu văn bản văn học là khâu rất quan trọng trong quá trình 
Dạy - Học Văn ở trường Trung học phổ thông. Đặc biệt, về phía giáo 
viên Ngữ văn tôi luôn trăn trở làm sao giúp học sinh của mình tiếp cận 
văn bản một cách hiệu quả nhất. Qua thực tế chấm bài kiểm tra, bài thi 
môn của học sinh, tôi nhận thấy: bài làm của các em về văn bản tự sự 
(trong phần nghị luận văn học) thường chỉ kể lan man, dài dòng, không đi 
vào trọng tâm nên không đạt điểm cao. Bởi vì các em thường không nắm 
được cốt truyện, chủ đề tư tưởng nghệ thuật, tình huống truyện, hình 
tượng nghệ thuật, lời văn nghệ thuật của các văn bản tự sự học trong 
chương trình. Vì thế tôi chọn đề tài : 
“Lời văn nghệ thuật trong Vợ nhặt - Kim Lân và Vợ chồng A Phủ 
- Tô Hoài”. 
 Khi thực hiện đề tài này, tôi hiểu đã có bao công trình nghiên cứu, 
bao bài viết hay về văn bản tự sự. Do đó thật khó để cá nhân tôi có thể 
tìm được những ý tưởng sâu sắc, độc đáo. Nhận thức rõ thực tế đó nên 
trong phạm vi đề tài, tôi chỉ đi sâu tìm hiểu các văn bản tự sự với mục 
đích: 
 - Đánh giá sự đóng góp riêng về lời văn nghệ thuật của nhà văn Kim 
Lân và Tô Hoài trong nền văn học Việt Nam hiện đại. 
 - Dấu ấn phong cách riêng của nhà văn Kim Lân và Tô Hoài. 
1. THỰC TRẠNG TRƯỚC KHI THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP 
CỦA ĐỀ TÀI. 
 1.1.Thuận lợi: 
 - Xuất phát từ yêu cầu đổi mới phương pháp Dạy – Học của Ngành 
và của toàn xã hội. 
 - Yêu cầu của mục tiêu bài học trong chuẩn kiến thức, kỹ năng của 
mỗi bài dạy cụ thể của Bộ Giáo Dục và Đào tạo. 
 - Gợi ý hướng dẫn giảng dạy của từng bài trong sách giáo viên. 
 - Kinh nghiệm giảng dạy của bản thân giáo viên. 
 - Học sinh phát huy được tính chủ động và sáng tạo trong việc tìm 
hiểu, khám phá tác phẩm văn học. 
 1.2. Khó khăn: 
 - Phương pháp này khó đạt hiệu quả cao nếu học sinh không tích cực 
chủ động chuẩn bị bài trước khi đến lớp. 
 - Xu thế xã hội, tâm lí học sinh chú trọng các môn học về khoa học tự 
nhiên hơn là các môn học về khoa học xã hội. 
 - Văn bản tự sự đòi hỏi học sinh phải hiểu đặc trưng văn bản tự sự: tư 
tưởng nghệ thuật của nhà văn, phong cách nhà văn, lí luận văn học, cuộc 
đời và sự nghiệp của nhà văn  
 - Đọc – hiểu văn bản tự sự đòi hỏi học sinh phải trải qua nhiều công 
đoạn : tóm tắt cốt truyện, cảm nhận cái hay, độc đáo của nhan đề tác 
phẩm, tình huống truyện, lời văn nghệ thuật, phân tích nhân vật, giá trị 
nội dung, giá trị nghệ thuật.cần thái độ chăm chỉ, chịu khó, tốn nhiều 
thời gian  
2. GIỚI HẠN NGHIÊN CỨU 
Chương trình Ngữ văn 12 cơ bản, học kì 2, phần văn bản tự sự (kể cả đọc 
thêm) chiếm 15 tiết, 7 tuần. Chính vì thế trong đề tài này, tôi chỉ đề cập 
đến nội dung các văn bản tự sự : Vợ nhặt - Kim Lân; Vợ chồng A phủ - 
Tô Hoài. 
Việc Đọc – Hiểu văn bản tự sự là một khâu quan trọng trong giờ học 
Ngữ văn. Chính vì thế người giáo viên dạy Văn luôn tìm cách giúp học 
sinh của mình tiếp cận văn bản tự sự sao cho hiệu quả nhất. Giáo viên 
phải hướng dẫn học sinh: định hướng giọng đọc, tóm tắt văn bản, nhan đề 
tác phẩm, tình huống truyện, hình tượng nghệ thuật, lời văn nghệ thuật  
Tuy nhiên, việc tìm hiểu lời văn nghệ thuật trong tác phẩm văn xuôi tự sự 
ở trường THPT còn sơ lược. Vì vậy, tôi chọn đề tài này với mong muốn 
 có thể vận dụng vào công việc giảng dạy, nâng cao chất lượng học tập, 
kết quả kiểm tra, bài thi ở học sinh. 
 II.TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI 
 1. Cơ sở lý luận: 
Để học sinh hiểu sâu, có cơ sở lí luận chặt chẽ và vận dụng được vào 
bài kiểm tra, bài thi, khi dạy văn bản tự sự, người giáo viên phải: 
- Giúp học sinh nắm các khái niệm thể loại: 
Truyện ngắn: là thể loại tự sự mang những đặc điểm như truyện nhưng 
có quy mô nhỏ. Truyện ngắn được xem như một “lát cắt”, một “mảnh 
nhỏ” của cuộc sống, cuộc đời nhân vật. 
Thể loại truyện ngắn hiện đại là kiểu tư duy nghệ thuật mới, một cách 
nhìn cuộc đời, cách nắm bắt đời sống rất riêng, mang tính chất thể loại 
với đặc điểm loại hình riêng biệt. Truyện ngắn hiện đại phát triển theo 
nhiều hướng khác nhau, tùy cách sử dụng các yếu tố cốt truyện, nhân vật, 
trần thuật và kết cấu truyện của nhà văn Tác giả Phùng Hoài Ngọc với 
bài giảng đại cương “Thi pháp học hiện đại” (Trường Đại Học An 
Giang, 2006) có đề cập vấn đề thi pháp hiện đại chung chung, chưa xem 
xét đến các truyện ngắn trong chương trình 12 THPT. Thái Phan Vàng 
Anh với bài viết “Ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn Việt Nam 
đương đại” đăng trên Tạp chí Sông Hương số 237, 11- 2008 chỉ bàn đến 
các vấn đề có tầm khái quát, nhưng chưa chỉ ra một hướng tiếp cận cụ thể 
nào trước một văn bản tự sự được học trong chương trình phổ thông. 
 Mặt khác, truyện ngắn lấy phương thức trần thuật (là một phương diện 
cơ bản của nghệ thuật tự sự - một phương thức biểu đạt thông dụng mà 
văn học lựa chọn) để hiểu biết và phản ánh đời sống. Nghệ thuật trần 
thuật giúp cho người nghiên cứu đi sâu khám phá những đặc sắc trong 
nghệ thuật kể chuyện của mỗi nhà văn, trên cơ sở đó, người đọc tiếp nhận 
và giải mã cấu trúc bên trong tác phẩm, đồng thời có thể đánh giá những 
sáng tạo, những đóng góp của nhà văn đối với sự phát triển truyện ngắn 
nói riêng và quá trình hiện đại hoá văn xuôi Việt Nam nói chung. 
 Với văn học hiện đại, khi ý thức tạo dựng nhiều góc nhìn thì điểm 
nhìn trần thuật thực sự trở thành một phạm trù quan trọng của thi pháp 
học hiện đại. Tìm hiểu điểm nhìn là tìm hiểu một kiểu quan hệ, một 
phương thức tiếp cận của nhà văn với hiện thực 
2. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài 
 Người giáo viên sẽ giúp học sinh hiểu được một số vấn đề liên quan 
đến lời văn nghệ thuật trong các văn bản tự sự cụ thể: 
 Lời văn trong tác phẩm văn học nghệ thuật là một hiện tượng nghệ 
thuật. Văn học, một loại hình độc lập, phát triển song song với các loại 
hình nghệ thuật khác nhưng lấy ngôn ngữ là phương tiện diễn đạt. Ngôn 
ngữ là yếu tố đầu tiên của văn học. Và ngôn ngữ văn học lại có những 
đặc trưng riêng: tính chính xác, trong sáng; tính hàm xúc; tính mơ hồ, đa 
nghĩa; tính tạo hình, biểu cảm. 
Lời văn nghệ thuật của tác phẩm nghệ thuật bao giờ cũng có chức 
năng xây dựng hình tượng nên luôn luôn mang tính thẩm mĩ cao. Lời văn 
nghệ thuật được xây dựng từ tất cả những khả năng và phương diện ngôn 
ngữ toàn dân trên mọi bình diện từ ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, các 
phương thức tu từ  đến các hình thức ngôn từ vốn có trong kho tàng 
ngôn ngữ dân tộc: từ cổ, từ địa phương, tiếng lóng và các vốn từ đã trở 
thành di sản nghệ thuật dân tộc. 
 Truyện ngắn, một thể loại tự sự trong văn học bao giờ cũng phản ánh 
cuộc sống qua con người, hành vi, sự kiện được kể lại bởi một người kể 
chuyện nào đó, qua đó ta hiểu được sự nhận thức đánh giá của nhà văn 
đối với cuộc sống. Do đó tác phẩm bao giờ cũng có hình tượng người 
trần thuật với vai trò kể lại, tả lại những diễn biến, sự việc và khắc hoạ 
nhân vật trong câu chuyện. Lời kể luôn xuất phát từ những điểm nhìn 
nhất định, gắn với vấn đề vai kể, giọng kể Trong văn xuôi tự sự điểm 
nhìn có khi được di chuyển, vai kể, giọng kể cũng không thuần nhất. Xét 
về chức năng xây dựng hình tượng, có thể phân loại lời người kể thành 
lời kể/ lời trần thuật, lời miêu tả, lời trữ tình( lời bình luận trực tiếp). 
 Mỗi văn bản tự sự ( Vợ nhặt – Kim Lân; Vợ chồng A Phủ – Tô Hoài) sẽ 
được xem xét, phân tích lời văn nghệ thuật, cụ thể là ở các mặt sau: 
- Kết cấu văn bản 
- Nghệ thuật trần thuật 
- Điểm nhìn nghệ thuật 
- Ngôn ngữ nghệ thuật 
 2.1. Lời văn nghệ thuật trong truyện ngắn Vợ nhặt – Kim Lân: 
2.1.1. Kết cấu văn bản: 
* Trong văn học, khái niệm kết cấu bao hàm không chỉ sự liên kết bên ngoài 
(mối liên hệ kết nối giữa các phần, các chương đoạn) mà cả sự liên kết bên 
trong (cấu trúc nội dung cụ thể) của tác phẩm. Đó là "phương tiện cơ bản và tất 
yếu của khái quát nghệ thuật", có "chức năng đa dạng bộc lộ tốt chủ đề tư 
tưởng của tác phẩm; triển khai trình bày hấp dẫn cốt truyện, tổ chức điểm nhìn 
trần thuật của tác giả tạo nên tính toàn vẹn của tác phẩm như là một hiện 
tượng thẩm mĩ" (Từ điển thuật Ngữ văn học, nhà xuất bản Giáo dục, 1992). 
Như vậy, kết cấu là một yếu tố của hình thức tham gia thể hiện chủ đề nội dung 
và tư tưởng tác phẩm, đóng vai trò quan trọng trong việc biến tác phẩm thành 
một chỉnh thể nghệ thuật. 
Nhữ Bá Sĩ rất quan tâm tới kết cấu ngay từ những năm cuối thế kỉ XVIII đầu 
thế kỉ XIX. Ông từng nhận xét: “Loại văn chương tột bậc của thiên hạ đúng là 
không ở trong cái giới hạn đóng, mở, kết cấu, nhưng mà không đóng, mở, kết 
cấu thì cũng không thành văn chương”. Sách Lí luận văn học (tập 2 : Tác phẩm 
và thể loại văn học) cho rằng : “Kết cấu, cấu trúc vô luận là tổ chức vật thể, 
quan hệ hay quy tắc, phương pháp, mô hình đều là yếu tố tạo thành văn bản, là 
thực tế không thể bỏ qua trong quá trình sáng tác và đọc hiểu văn bản.” 
Truyện Vợ nhặt – Kim Lân cũng có một kết cấu rất riêng. 
Truyện Vợ nhặt diễn ra trong không gian nghệ thuật nhỏ bé là ngôi chợ, xóm 
nhỏ ngụ cư và căn nhà của gia đình Tràng. Đây là không gian một làng quê 
nhưng không có ruộng đồng cò bay thẳng cánh mà chỉ là xóm ngự cư trong 
những ngày cận kề bên cái đói, cái chết. Sự chết chóc hiện lên với con đường 
 khẳng khiu cùng những bóng người dật dờ đi lại, kèm theo âm thanh của tiếng 
quạ kêu từng đàn thê thiết. Nhưng không gian ấy phát triển ấm áp dần theo tâm 
lí nhân vật với ý nghĩa biểu tượng.Và truyện dẫn đến không gian ngôi nhà, tổ 
ấm. Căn nhà lúc đầu được miêu tả rúm ró, lổn nhổn cỏ dại nhưng đến sáng hôm 
sau quang quẻ hơn, tạo thành bước ngoặt tâm lí ở Tràng: “Bỗng nhiên hắn thấy 
hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng”. Ngoài ra, không gian bối 
cảnh xã hội trong truyện là xã hội nghèo đói, loạn lạc Việt Nam những năm 
trước Cách mạng tháng Tám, cụ thể là năm 1945. 
Thời gian nghệ thuật cũng ngắn ngủi. Chỉ là buổi chiều Tràng đưa người v

File đính kèm:

  • pdfskkn_loi_van_nghe_thuat_trong_vo_nhat_kim_lan_va_vo_chong_a.pdf