Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp để nâng cao chất lượng học sinh yếu kém

Vấn đề học sinh yếu kém luôn là vấn đề được được tất cả các ngành, các

cấp và toàn xã hội quan tâm. Đặc biệt vấn đề này càng được ngành giáo dục

Việt Nam hết sức chú trọng trong các năm học gần đây và đã đưa vào nội

dung của cuộc vận động “Hai không” để triển khai thực hiện sâu rộng trong

toàn ngành. Thật xót xa làm sao khi mà hằng ngày, hàng giờ, các phương tiện

thông tin đại chúng vẫn đưa tin về không ít học sinh đang “ngồi nhầm lớp”,

thậm chí có em đã lên học cấp THCS mà vẫn chưa đọc thông, viết thạo,

Để học sinh yếu kém, “ngồi nhầm lớp” thực sự là một cái “Tội” – Tội của

thầy và tội cho cả học sinh.

Thực tế cho thấy, bên cạnh số học sinh khá - giỏi, trong một lớp học bao

giờ cũng có vài em học sinh yếu kém. Điều đó đã dẫn đến sự chênh lệch về

trình độ tiếp thu của các em và nhất là đối với học sinh yếu kém thì học tập

quả là một gánh nặng. Gánh nặng đó, khiến các em khó vượt qua để theo kịp

với các bạn trong lớp.

Qua 15 trực tiếp giảng dạy, tôi đã gặp không ít học sinh yếu kém, các em

yếu kém ở nhiều dạng khác nhau, điều đó đã gây không ít khó khăn cho công

tác chủ nhiệm của tôi. Vậy làm cách nào để tạo động cơ học tập cho học sinh

yếu kém ? Đó chính là vấn đề mà tôi và tất cả các đồng nghiệp luôn trăn trở

và cần có hướng giải quyết ngay từ khi vừa nhận lớp.

pdf 13 trang Huy Quân 01/04/2025 520
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp để nâng cao chất lượng học sinh yếu kém", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp để nâng cao chất lượng học sinh yếu kém

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp để nâng cao chất lượng học sinh yếu kém
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 
MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐỂ NÂNG 
CAO CHẤT LƯỢNG HỌC SINH 
YẾU KÉM 
 SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC 
________________________________________________________________ 
I. THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN 
1. Họ và tên: Phạm Thị Vân. 
2. Ngày tháng năm sinh: 06/06/1975. 
3. Nam, nữ: Nữ 
4. Địa chỉ: 1472 tổ 1, ấp 1, xã Tà Lài, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai. 
5. Điện thoại: Cơ quan: 0613 791029 ĐTDĐ: 0988 502 877 
6. Fax: 
7. Chức vụ: Giáo viên dạy lớp. 
8. Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Nguyễn Trung Trực. 
II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO 
- Học vị (hoặc trình độ chuyên môn, nghiệp vụ) cao nhất: Cử nhân khoa 
học. 
- Năm nhận bằng: 2007. 
- Chuyên ngành đào tạo: Giáo dục Tiểu học – Hệ đào tạo từ xa. 
III. KINH NGHIỆM KHOA HỌC 
- Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: Dạy lớp bậc Tiểu học. 
 Số năm có kinh nghiệm: 14 năm. 
- Các sáng kiến kinh nghiệm đã có trong 5 năm gần đây: 
 Một số biện pháp để nâng cao chất lượng học sinh yếu kém (Đã được 
Hội đồng thẩm định SKKN năm học 2008 – 2009 công nhận ). 
 Vận dụng phương pháp tích cực vào việc dạy giải Toán có lời văn cho 
học sinh lớp 4 (Đã được Hội đồng thẩm định SKKN năm học 2009 – 2010 
công nhận). 
Một số biện pháp để nâng cao chất lượng học sinh yếu kém (Đã được 
Hội đồng thẩm định SKKN năm học 2010 – 2011 công nhận ). 
Một vài kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm ở lớp Bốn (Đã được Hội 
đồng thẩm định SKKN năm học 2011 – 2012 công nhận ). 
Đề tài: MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐỂ NÂNG CAO 
CHẤT LƯỢNG HỌC SINH YẾU KÉM 
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 
Vấn đề học sinh yếu kém luôn là vấn đề được được tất cả các ngành, các 
cấp và toàn xã hội quan tâm. Đặc biệt vấn đề này càng được ngành giáo dục 
Việt Nam hết sức chú trọng trong các năm học gần đây và đã đưa vào nội 
dung của cuộc vận động “Hai không” để triển khai thực hiện sâu rộng trong 
toàn ngành. Thật xót xa làm sao khi mà hằng ngày, hàng giờ, các phương tiện 
thông tin đại chúng vẫn đưa tin về không ít học sinh đang “ngồi nhầm lớp”, 
thậm chí có em đã lên học cấp THCS mà vẫn chưa đọc thông, viết thạo,  
Để học sinh yếu kém, “ngồi nhầm lớp” thực sự là một cái “Tội” – Tội của 
thầy và tội cho cả học sinh. 
Thực tế cho thấy, bên cạnh số học sinh khá - giỏi, trong một lớp học bao 
giờ cũng có vài em học sinh yếu kém. Điều đó đã dẫn đến sự chênh lệch về 
trình độ tiếp thu của các em và nhất là đối với học sinh yếu kém thì học tập 
quả là một gánh nặng. Gánh nặng đó, khiến các em khó vượt qua để theo kịp 
với các bạn trong lớp. 
Qua 15 trực tiếp giảng dạy, tôi đã gặp không ít học sinh yếu kém, các em 
yếu kém ở nhiều dạng khác nhau, điều đó đã gây không ít khó khăn cho công 
tác chủ nhiệm của tôi. Vậy làm cách nào để tạo động cơ học tập cho học sinh 
yếu kém ? Đó chính là vấn đề mà tôi và tất cả các đồng nghiệp luôn trăn trở 
và cần có hướng giải quyết ngay từ khi vừa nhận lớp. 
Từ các lí do trên, sau nhiều năm vận dụng và chọn lọc, tôi mạnh dạn đưa 
ra “Một số biện pháp để nâng cao chất lượng học sinh yếu kém”. 
II. TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI 
1. Cơ sở lí luận: 
Bác Hồ đã từng căn dặn học sinh: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi 
đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với 
các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công 
học tập của các em.” 
Muốn thực hiện tốt lời căn dặn đó của Người, đòi hỏi mỗi học sinh Tiểu 
học phải đạt được các yêu cầu về chuẩn kiến thức, kĩ năng của lớp mình đang 
học. Thế nhưng, trong một lớp học, bao giờ cũng có vài em chưa thực sự đạt 
đến chuẩn đó, khiến cho giáo viên phải mất nhiều thời gian và công sức để 
kèm cặp mà hiệu quả đôi khi không được như mong đợi. Vì vậy, không giáo 
viên nào muốn lớp mình phụ trách có học sinh yếu kém. Nhưng, sự xuất hiện 
của những học sinh này lại là điều khó tránh khỏi. Năm học này có vài em, 
năm học sau lại xuất hiện vài em. Và cũng không ít giáo viên đã xếp các em 
học sinh yếu kém vào diện học sinh cá biệt. Đây quả là một sai lầm đáng 
tiếc, bởi lẽ, một học sinh yếu kém vẫn có thể là một học sinh ngoan, chuyên 
cần, lễ phép,  Còn một học sinh được xem là cá biệt chỉ khi học sinh đó có 
vấn đề gì đó chưa ổn về đạo đức, lối sống, 
 Thực tế cho thấy, không có học sinh dốt mà chỉ có học sinh không biết 
cách học hoặc không được giáo dục đúng cách. Nhìn chung, học sinh yếu kém 
có một số đặc điểm chung là: 
- Tâm lí không được ổn định, thiếu sự tự tin trong học tập. 
- Một số em ngôn ngữ tiếng Việt còn bị hạn chế (nhất là những học sinh 
dân tộc Tày ở khu vực ấp 6, ấp 7 của xã Tà Lài). 
- Khả năng tư duy, ghi nhớ, năng lực khái quát hóa, tổng hợp hóa cũng 
hạn chế dẫn tâm lý ngại đến lớp, ngại học bài và làm bài. 
- Khả năng tập trung chú ý không bền. 
- Thiếu sự quan tâm, chăm sóc của gia đình và sự hỗ trợ của cộng đồng. 
- Do bị mất căn bản mà không được phụ đạo kịp thời, dễ chán nản khi 
thấy việc học quá sức của mình. 
- Do chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc học, lơ là, chểnh mảng 
trong học tập, đến trường cho có lệ, học không có mục đích, kết quả cuối cùng 
là học tập sa sút, đi dần đến yếu kém. 
2. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài. 
Theo tôi, biện pháp giáo dục học sinh yếu kém hữu hiệu nhất chính là cần 
xây dựng động cơ học tập đúng đắn cho các em, nghĩa là động cơ phải xuất 
phát từ chính việc học, học tập để có kết quả tốt, để mai sau trở thành một 
công dân tốt, một người lao động năng động, sáng tạo. Bởi lẽ, động cơ tạo nên 
động lực học – một thành tố quan trọng trong cấu trúc hoạt động học tập của 
trẻ. 
 Để giúp các em học sinh yếu kém vươn lên theo kịp với trình độ 
chung, ngay từ những ngày đầu vừa nhận lớp, tôi đã thông qua nhiều kênh 
thông tin để nắm bắt chính xác số lượng học sinh yếu kém và phát hiện những 
học sinh có dấu hiệu sa sút, chểnh mảng việc học. Tìm hiểu nguyên nhân vì 
sao các em yếu kém ? Từ đó tôi định hướng những biện pháp giáo dục phù 
hợp cho từng trường hợp cụ thể. 
Muốn làm được điều này, tôi đã thông qua nhiều nguồn như: 
Thứ nhất, thông qua nghiên cứu lí lịch học sinh, tôi sẽ nắm được hoàn 
cảnh gia đình; điều kiện kinh tế; nghề nghiệp của phụ huynh; gia đình đông 
con hay ít con; phụ huynh có quan tâm đến việc học tập của con cái hay 
không; các mối quan hệ bạn bè; điều kiện về sức khỏe, năng lực của trẻ,... 
Thứ hai, thông qua nghiên cứu hồ sơ của học sinh như: học bạ, sổ liên 
lạc, biên bản bàn giao chất lượng và kết quả bài khảo sát chất lượng học sinh 
đầu năm,  tôi sẽ nắm được mặt mạnh cũng như mặt hạn chế của từng học 
sinh trong lớp. Từ đó tôi đề ra kế hoạch dạy học cho cả lớp nói chung và đặc 
biệt là kế hoạch phụ đạo cho từng học sinh yếu kém nói riêng. Tôi vừa dạy 
vừa theo dõi để phát hiện kịp thời các lỗ hổng trong kiến thức mà học sinh vấp 
phải cũng như tham khảo ý kiến của giáo viên lớp trước để đưa ra những nhận 
định chính xác nhất và phân loại học sinh yếu kém theo các nhóm để đề ra 
giải pháp dạy học phù hợp. 
 Ví dụ: Nhóm yếu toán về cộng, trừ; nhóm yếu về nhân, chia, nhóm 
không biết giải toán có lời văn; nhóm đọc chưa thông, phải nhẩm vần, nhóm 
viết chậm, 
mắc nhiều lỗi chính tả; nhóm gặp khó khăn khi tìm từ diễn đạt, ý để đặt 
câu; 
Tùy vào tình hình thực tế mà tôi có thể phân ra nhiều nhóm đối tượng cụ 
thể hơn. Khi đã tách được từng loại đối tượng như thế, tôi có các hình thức và 
phương pháp đặc trưng phù hợp với từng nhóm đối tượng. 
Chẳng hạn, với những em yếu về cộng, trừ, tôi cho các em giải các bài tập 
riêng: cộng, trừ với các số có 2 – 3 chữ số, từ không nhớ đến có nhớ ở 1 hàng, 
dần dần nâng lên có nhớ ở 2 hàng (không ra các bài tập cộng, trừ có nhớ ở 2 
hàng liên tiếp nhau và có thể cho các em sử dụng que tính để tính toán và loại 
bỏ que tính dần dần theo sự tiến bộ của các em). 
Đối với những em yếu về đọc, trong giờ Tập đọc, tôi cho các em đọc một 
câu hoặc một đoạn ngắn, gợi ý thêm một số câu hỏi phụ chỉ cần trả lời vài từ 
để các em trả lời, cho các em điền từ còn thiếu vào các câu đơn giản (để hình 
thành các sự kiện trong bài đọc). Thường xuyên mời các em đọc một vài đoạn 
ngắn ở các môn học khác để nâng cao dần kĩ năng đọc cho các em. 
Thứ ba, tôi thông qua trao đổi với phụ huynh học sinh để nắm bắt được 
sự quan tâm giáo dục hay thờ ơ của họ. Từ đó có sự tư vấn và phối hợp chặt 
chẽ giữa giáo viên và phụ huynh để cùng thống nhất đề ra biện pháp giáo dục 
khả thi nhất nhằm phát huy những mặt mạnh của học sinh và loại trừ dần 
những mặt còn hạn chế. 
Đồng thời, tôi luôn quan tâm, trao đổi, lắng nghe ý kiến của học sinh, lấy 
tình yêu thương để giáo dục các em, tạo ra động cơ học tập cho học sinh. 
Khuyến khích, động viên các em nói lên những mong muốn, khó khăn của 
mình. Từ đó, tôi nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng, sở thích, thái độ trong 
quan hệ với mọi người của học sinh. Và cũng từ đây, tôi sẽ phát huy sở trường 
của học sinh, tạo động lực kích thích các em học tập. 
Ví dụ: Năm học 2009 – 2010, lớp tôi có em Trần Quốc Đạt hạn chế về 
mặt phát âm. Em chỉ nói và đọc được phần vần của tiếng còn phụ âm đầu 
phần lớn là em không đọc được. Các bạn trong lớp thường cười ầm lên mỗi 
khi em đọc bài hoặc phát biểu. Mỗi lần như thế, tôi thấy được sự buồn tủi trên 
gương mặt của em, dần dần em sống co mình lại, không chịu đọc bài (nếu có 
đọc thì đọc rất nhỏ) và không tham gia phát biểu xây dựng bài dẫn đến sức 
học của em ngày càng sa sút. Nắm được điều đó, tôi đã gặp riêng từng học 
sinh trong lớp, nói cho các em biết không được cười bạn, vì làm như thế là 
độc ác. Vào giờ Tập đọc, tôi mời em đọc bài và khuyến khích em phát biểu 
thật nhiều, khen ngợi khi em có những ý kiến hay, hướng dẫn em đọc đúng 
tiếng có phụ âm đầu vào giờ chơi, giờ hoạt động tập thể. Từ đó, các bạn trong 
lớp quên dần việc em Đạt đọc ngọng, còn Đạt dần dần lấy lại sự tự tin, đọc đỡ 
ngọng hơn. 
 Bước tiếp theo tôi phân loại và chia nguyên nhân dẫn đến tình trạng 
yếu kém của học sinh thành 3 loại chính để đề ra biện pháp giúp đỡ các em. 
a) Yếu kém do hoàn cảnh gia đình: 
 Tôi nhận 

File đính kèm:

  • pdfsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_de_nang_cao_chat_luon.pdf