Sáng kiến kinh nghiệm Dạy học sinh Tiểu học viết đúng hỏi/ngã như thế nào?

Mục tiêu của môn Tiếng Việt ở trường Tiểu học nhằm hình

thành và phát triển ở học sinh (HS) các kỹ năng sử dụng tiếng Việt

như nghe, nói, đọc, viết để học tập và giao tiếp trong cuộc sống.

Thông qua việc dạy và học môn Tiếng Việt, góp phần rèn luyện các

thao tác tư duy; Cung cấp cho HS những kiến thức cơ bản về tiếng

Việt và những kiến thức xã hội, tự nhiên và con người về văn hóa

và văn học Việt Nam; Bồi dưỡng tình yêu và thói quen giữ gìn sự

trong sáng của tiếng Việt, hình thành nhân cách con người. Một

trong những phân môn không kém phần quan trọng của môn Tiếng

Việt đó chính là phân môn Chính tả.

Dân tộc Việt Nam trải qua bốn nghìn năm văn hiến đã tích lũy

được một kho tàng tập quán, văn học và văn hóa rất đa dạng và

phong phú. Chữ viết của dân tộc ta tuy mới hình thành hơn trăm

năm nay, nhưng cũng như mọi quốc gia khác đã thành trụ cột then

chốt của nền văn hóa nước nhà. Việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng

Việt cả trong lời nói lẫn chữ viết là việc làm hết sức cần thiết của tất

cả mọi người dân Việt Nam.

pdf 9 trang Huy Quân 01/04/2025 601
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Dạy học sinh Tiểu học viết đúng hỏi/ngã như thế nào?", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Dạy học sinh Tiểu học viết đúng hỏi/ngã như thế nào?

Sáng kiến kinh nghiệm Dạy học sinh Tiểu học viết đúng hỏi/ngã như thế nào?
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 
DẠY HỌC SINH TIỂU 
HỌC VIẾT ĐÚNG 
HỎI/NGÃ NHƯ THẾ NÀO? 
ThS. Đoàn Kim Phúc 
Trường Đại học Quảng Bình 
 Mục tiêu của môn Tiếng Việt ở trường Tiểu học nhằm hình 
thành và phát triển ở học sinh (HS) các kỹ năng sử dụng tiếng Việt 
như nghe, nói, đọc, viết để học tập và giao tiếp trong cuộc sống. 
Thông qua việc dạy và học môn Tiếng Việt, góp phần rèn luyện các 
thao tác tư duy; Cung cấp cho HS những kiến thức cơ bản về tiếng 
Việt và những kiến thức xã hội, tự nhiên và con người về văn hóa 
và văn học Việt Nam; Bồi dưỡng tình yêu và thói quen giữ gìn sự 
trong sáng của tiếng Việt, hình thành nhân cách con người. Một 
trong những phân môn không kém phần quan trọng của môn Tiếng 
Việt đó chính là phân môn Chính tả. 
Dân tộc Việt Nam trải qua bốn nghìn năm văn hiến đã tích lũy 
được một kho tàng tập quán, văn học và văn hóa rất đa dạng và 
phong phú. Chữ viết của dân tộc ta tuy mới hình thành hơn trăm 
năm nay, nhưng cũng như mọi quốc gia khác đã thành trụ cột then 
chốt của nền văn hóa nước nhà. Việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng 
Việt cả trong lời nói lẫn chữ viết là việc làm hết sức cần thiết của tất 
cả mọi người dân Việt Nam. 
Thế nhưng, hiện tượng viết sai chính tả ở trẻ em bậc Tiểu học 
khá phổ biến. Đặc biệt đối với HS là người miền Trung, việc viết 
sai thanh hỏi/thanh ngã chiếm tỷ lệ khá cao. Lỗi này do nhiều 
nguyên nhân như: phát âm sai; thời gian thực hành luyện viết chính 
tả cho các em còn hạn chế; giáo viên (GV) chưa phân tích và sửa 
chữa lỗi sai chính tả cho những HS viết sai; một số sách, tài liệu học 
tập còn in sai lỗi chính tả ở một số văn bản; và một nguyên nhân lớn 
hơn là một số GV chưa nắm vững các quy tắc, cơ sở khoa học để 
hướng dẫn cho HS. 
 Viết sai dấu hỏi, ngã sẽ làm ý nghĩa đảo ngược và có khi vô 
cùng tai hại cho văn học và văn hóa Việt Nam. Chẳng hạn, danh từ 
nhân sĩ, chữ sĩ phải được viết bằng dấu ngã để mô tả một vị chính 
khách có kiến thức văn hóa chính trị, nhưng nếu vô tình chúng ta 
viết nhân sỉ, chữ sỉ với dấu hỏi có nghĩa là nhục sỉ, hay sỉ nhục nên 
ý nghĩa của danh từ nhân sĩ sẽ bị trái ngược hoàn toàn. Việc rèn cho 
HS tiểu học viết đúng hỏi/ngã là nhiệm vụ của người GV. Trong 
phạm vi bài viết này, chúng tôi sẽ tóm tắt một số quy luật và biện 
pháp nhỏ, hy vọng sẽ giúp các thầy cô giáo bậc Tiểu học, HS-SV sư 
phạm phần nào hiểu rõ hơn cách viết hỏi/ngã, trên cơ sở đó rèn cho 
HS kỹ năng viết đúng, nhằm làm phong phú thêm cho tiếng Mẹ đẻ. 
Làm thế nào biết được tiếng nào viết dấu hỏi, tiếng nào viết 
dấu ngã? Không có con đường nào ngoài việc là phải học, phải rèn 
luyện nhiều, trở thành thói quen mới viết đúng. Nhiều người nhận 
xét thấy người miền Bắc viết đúng chính tả hỏi/ngã hơn người miền 
Nam và miền Trung. Họ viết đúng và dễ dàng, gần như không cần 
học một quy tắc nào cả. Tại sao vậy? Đơn giản vì người miền Bắc 
nói và đọc chữ dấu hỏi khác với chữ dấu ngã. Khi nghe tiếng có 
giọng dấu nào thì viết chữ với dấu đó, dễ như viết dấu sắc và dấu 
huyền. Điều đó có nghĩa, môi trường giao tiếp tự nhiên cũng góp 
phần quan trọng không nhỏ trong việc rèn cho HS phát âm đúng 
dẫn đến viết đúng. Vậy thì, trước hết chúng ta rèn luyện cho HS viết 
đúng theo phương pháp tự nhiên. 
1. Thực hành qua giao tiếp tự nhiên 
Cái khó của HS miền Trung là không có môi trường giao tiếp 
tự nhiên ấy bởi vì xung quanh có rất nhiều người nói và viết sai 
hỏi/ngã. Một trong những biện pháp giúp HS tiểu học bắt chước tốt 
là yêu cầu HS tìm những tiếng, từ, chữ được viết dấu hỏi/ngã có 
trong bài đọc (hoặc ngoài bài đọc) mà các em đã được tiếp xúc. 
Chẳng hạn, tìm trong bài thơ Mẹ (Tiếng Việt 2, tập 1, tr.102): 
- Những tiếng có thanh hỏi. 
- Những tiếng có thanh ngã. 
Hay, tìm trong bài Con chó nhà hàng xóm (Tiếng Việt 2, tập 
1, tr.131): 
- 3 tiếng có thanh hỏi. Mẫu: nhảy 
- 3 tiếng có thanh ngã. Mẫu: vẫy 
Hoặc, bài tập điền dấu hỏi/ngã lên các chữ in nghiêng trong các 
văn bản đã được học như: 
Tôi lại nhìn, như đôi mắt tre thơ 
Tô quốc tôi. Chưa đẹp thế bao giờ! 
Xanh núi, xanh sông, xanh đồng, xanh biên 
Xanh trời, xanh cua nhưng ước mơ  
(Bài tập 2.b, Tiếng Việt 4, tập 1, tr.27) 
Với những bài tập thuộc dạng này, GV không bắt buộc HS phải 
giải thích lý do tại sao lại viết là dấu hỏi/ngã mà chỉ yêu cầu HS tìm 
hoặc nhớ lại bài đọc để viết lại cho đúng. Lâu dần sẽ tạo cho HS 
thói quen viết đúng. 
Trong tiếng Việt, tiếng có thanh hỏi chiếm tỷ lệ nhiều hơn 
thanh ngã. Chúng ta hướng dẫn HS học những tiếng thanh ngã, 
những tiếng còn lại là thanh hỏi, sẽ đỡ tốn công hơn. Cần nên vận 
dụng tất cả các cơ quan: tai nghe, mắt nhìn, tay viết. Cho HS đọc kỹ 
những văn bản viết dấu đúng chính tả, và nhất là tập viết đúng cho 
quen mắt, quen tay. Càng được thực hành nhiều, HS sẽ có kỹ năng 
viết đúng hỏi/ngã. Song, việc rèn cho HS học tập như vậy không 
phải không có cơ sở, căn cứ khoa học của nó. 
2. Dựa vào những cơ sở, căn cứ khoa học 
Ngoài việc thường xuyên tổ chức cho học sinh học thông qua 
giao tiếp tự nhiên như đã trình bày trên, GV phải nắm được quy 
luật, cơ sở khoa học của cách viết đúng dấu hỏi/ngã. Phương pháp 
này đòi hỏi nhiều hiểu biết về ngữ âm học, áp dụng những quy luật 
biến dị của âm thanh và về từ nguyên học để tìm tòi gốc rễ của mỗi 
tiếng. 
2.1. Cách viết hỏi/ngã trong từ Từ Hán - Việt 
Dù muốn hay không, trải qua hơn nghìn năm đô hộ của Trung 
Quốc, Việt Nam chúng ta chịu ảnh hưởng rất lớn bởi nền văn hóa 
Trung Hoa. Mặc dù đã cải biến và chữ viết được thay thế bằng chữ 
Quốc ngữ, nhưng còn nhiều từ chúng ta dùng thường ngày là từ Hán 
- Việt, chiếm tỷ lệ đến 70% tổng số từ trong tiếng Việt. Viết hỏi/ngã 
trong từ Hán - Việt không theo một quy tắc, quy luật nào cả, chỉ có 
mẹo giúp chúng ta viết đúng hỏi/ngã. Đó là, viết dấu ngã tất cả 
những tiếng bắt đầu bằng D, L, V, M, N, Nh, Ng và Ngh; hay nhớ 
câu: "Mình Nên Nhớ Viết Là Dấu Ngã". Ví dụ: dĩ vãng, dã man, 
lãng du, lãnh đạm, viễn xứ, vĩ nhân, mỹ miều, cần mẫn, nỗ lực, não 
nề, hàng ngũ, ngôn ngữ, nghiễm nhiên,  
Ngoài các tiếng bắt đầu bằng những phụ âm đã nêu trên, từ 
Hán - Việt được viết bằng phụ âm khác hoặc không có phụ âm được 
viết bằng dấu hỏi, ví dụ như: đảo điên, tưởng tượng, kiểu cách, ... 
Nhưng vẫn có một số trường hợp ngoại lệ vẫn viết bằng dấu ngã: kỹ 
(kỹ thuật, kỹ xảo), bãi (bãi bỏ, bãi khóa), hữu (bằng hữu, hữu nghị), 
phẫu (phẫu thuật, giải phẫu), tiễn (tiễn đưa, tiễn biệt, tống tiễn),  
Một trong các dạng bài tập giúp HS viết đúng hỏi/ngã trong từ 
Hán - Việt: Các từ Hán - Việt sau đây theo đúng quy luật hỏi ngã. 
Hãy sửa lại lỗi chính tả (nếu có). 
- diễn biến, biễu diển, hướng dẩn, hùng dũng, vủ khúc, ô 
nhiểm, lảng phí, kiều diễm, khã năng, thủy triều, thế kỹ,  
2.2. Cách viết hỏi/ngã trong từ Láy 
Từ láy là những từ ghép gồm hai (hay nhiều) tiếng mà một 
trong các tiếng đó hoàn toàn không có nghĩa nếu tách ra riêng lẻ. Ví 
dụ: buồn bã, liều lĩnh, hoàn hảo, lảo đảo, ... Gặp những tiếng chưa 
có cặp có đôi, thì cố tìm tiếng láy ghép vào cho có cặp, sau đó áp 
dụng qui tắc: huyền - ngã - nặng; sắc - hỏi - không (luật thuận thanh 
hay quy tắc hài thanh) hỗ trợ để viết đúng hỏi/ngã. Thí dụ gặp chữ 
kỹ/kỷ, nếu nghĩa trong câu cho phép ghép được với càng thành kỹ 
càng thì kỹ dấu ngã (do càng viết dấu huyền). Cách viết hỏi/ngã 
trong từ láy theo luật thuận thanh có các trường hợp sau: 
+ Ngã - huyền: bẽ bàng, buồn bã, lờ lững, ngỡ ngàng,  
+ Ngã - nặng: cãi cọ, đẹp đẽ, giãy giụa, rõ rệt,  
+ Ngã - ngã: bẽn lẽn, bỡ ngỡ, lững thững,  
+ Hỏi - sắc: hối hả, mới mẻ, ngất ngưởng,  
+ Hỏi - không: Bảnh bao, lẻ loi, nghỉ ngơi, sửa sang,  
+ Hỏi - hỏi: đủng đỉnh, lỏng lẻo, lởm chởm, tỉ mỉ, thỏ thẻ,  
Còn có cách tìm xem chữ cùng nghĩa với chữ chưa biết viết hỏi 
hay ngã thuộc thanh nào, để quyết định theo luật thuận thanh. Thí 
dụ gặp chữ mảnh vải, chữ cùng nghĩa với mảnh là miếng - thanh 
sắc, vậy mảnh dấu hỏi. Còn mãnh hổ, mãnh có nghĩa là mạnh - 
thanh nặng, nên mãnh viết bằng dấu ngã. 
Phân môn Chính tả ở Tiểu học có các dạng bài tập rèn luyện 
cách viết hỏi/ngã trong từ láy như: 
- Tìm 3 từ láy bắt đầu bằng tiếng có thanh hỏi (nghỉ ngơi); 
- Tìm 3 từ láy bắt đầu bằng tiếng có thanh ngã (nghĩ ngợi). 
(Bài tập 2.b, Tiếng Việt 4, tập 1, tr.56) 
- Điền dấu hỏi/ngã vào các chữ in nghiêng sau: 
+ lặng le, mạnh me, buồn ba, vương vai. 
(Bài tập 3.b, Tiếng Việt 2, tập 1, tr.85) 
Hoặc, chúng ta có thể giới thiệu bài tập dạng: Tạo một từ láy 
với mỗi tiếng sau đây: củ - cũ; giả - giả; hải - hãi; rả - rã; thẫn - 
thẫn;  
Ngoài ra, những phó từ trong câu thường được viết bằng dấu 
ngã. Ví dụ, anh cũng nghĩ như em. Hay, tôi đã nói với ông rồi mà. 
Từ cũng, đã được viết bằng dấu ngã. Không thể viết củng, đả trong 
hai câu trên. 
2.3. Dựa vào nghĩa của từ để viết hỏi/ngã 
Nhiều trường hợp dựa vào các quy tắc và mẹo nói trên cũng 
chưa xác định được là viết dấu hỏi hay dấu ngã, chúng ta phải dựa 
vào nghĩa của từ để viết. Ví dụ ở bài tập: Điền vào chỗ trống: 
- đổ hay đỗ:  rác, thi , trời  mưa, xe lại. 
- rủ hay rũ: Cười  rượi, lá  xuống mặt hồ. 
(Bài tập 3.b, Tiếng Việt 2, tập 1, tr.25) 
Ở bài tập này, HS khó phân biệt được đổ/đỗ và rủ/rũ để điền 
vào chỗ phù hợp. GV cần phải giải thích nghĩa của các từ cho HS 
hiểu mới có thể làm được. Đổ: (1) nằm xuống mạnh và đột nhiên 
(cây đổ, nhà đổ); (2) nói xe nghiêng (tàu đổ mất ba toa); (3) chảy ra 
(đã đổ máu, đổ mồ hôi); (4) gán cho (đổ vạ, đổ tội). Đỗ: (1) với 
nghĩa dừng lại (tàu đỗ lại); (2) nghĩa đỗ đạt (đỗ tiến sĩ); (3) nghĩa 
tạm thời (ở đỗ). Hoặc rủ: (1) nghĩa thuyết phục người khác (rủ nhau 
đi chơi); nghĩa buông thõng (trướng rủ màn che). Còn rũ: nghĩa gục 
xuống vì hết sinh lực. Tốt nhất, chúng ta nên dùng từ điển Tiếng 
Việt để giải thích nghĩa của từ. 
Trong dạy học, chúng ta cần giúp các em nắm được các quy tắc 
chính tả, giải thích cho HS hiểu nghĩa của các từ để các em viết 
đúng; Dành nhiều thời gian để HS thực hành viết chính tả. Để tránh 
nhàm chán cho HS, GV

File đính kèm:

  • pdfsang_kien_kinh_nghiem_day_hoc_sinh_tieu_hoc_viet_dung_hoinga.pdf