Sáng kiến kinh nghiệm Công tác chủ nhiệm lớp

Cơ sở thực tiễn.

 Đất nước ngày một đi lên, chất lượng sống ngày một nâng cao kéo theo đó là những hệ lụy không nhỏ ảnh hưởng tới sự phát triển của con người, đặc biệt là thế hệ trẻ. Đạo đức của học sinh là một trong những vấn đề lo lắng của các bậc phụ huynh khi đứng trước thực trạng đạo đức của các em bị “ xuống cấp” nghiêm trọng. Truyền thống đạo lý “ Tôn sư trọng đạo”, “ Nhất tự vi sư, bán tự vi sư” bị xem nhẹ. Nhiều trò không coi thầy là cha mình ( sư phụ) như xưa mà gọi là “hắn”, “nó”, “ mụ”; chửi thầy trên face book với những lời lẽ tục tĩu, thậm chí còn đánh thầy. Bên cạnh đó là các tệ nạn xã hội xâm nhập vào môi trường học đường, nạn bạo lực học đường xảy ra thường xuyên. Đó là khó khăn rất lớn với những người làm công tác giáo dục, đặc biệt là giáo viên chủ nhiệm.

 Bản thân tôi, nhiều năm được phân công làm giáo viên chủ nhiệm lớp, với ý thức trách nhiệm, sự nỗ lực phấn đấu tìm mọi biện pháp giáo dục thích ứng để giáo dục, quản lý học sinh lớp mình phụ trách, bằng kết quả thực tiễn, đúc rút những bài học kinh nghiệm. tôi xin được trao đổi, chia sẻ cùng các bạn đồng nghiệp trong công tác của một GVCN lớp.

 

doc 12 trang Thảo Phương 15/05/2023 2500
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Công tác chủ nhiệm lớp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Công tác chủ nhiệm lớp

Sáng kiến kinh nghiệm Công tác chủ nhiệm lớp
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
1. Cơ sở lý luận.
 Trong tiếng Anh, từ “giáo dục” được biết đến với từ “education”, đây là một từ gốc Latin được ghép bởi hai từ là “Ex” và “Ducere” – “Ex-Ducere”. Có nghĩa là dẫn (“Ducere”) con người vượt ra khỏi (“Ex”) hiện tại của họ để vươn tới những gì hoàn thiện, tốt lành hơn và hạnh phúc hơn.
 Giáo dục là quá trình toàn vẹn hình thành nhân cách, được tổ chức có mục đích, có kế hoạch, thông qua hoạt động và quan hệ giữa nhà giáo dục và người được giáo dục nhằm chiếm lĩnh kinh nghiệm xã hội của loài người. Giáo dục là quá trình tác động tới thế hệ trẻ về đạo đức, tư tưởng, hành vi, thói quen ứng xử đúng đắn trong xã hội.
 Mạnh Tử nói: “Nhân chi sơ tính bổn thiện, tính tương cận tập tương viễn”, nghĩa là con người sinh ra ban đầu vốn dĩ lương thiện, tính tình khá đồng nhất, nhưng do môi trường và sự tiếp cận học hỏi khác nhau mà tính tình đâm ra khác biệt nhau.
 Tuân Tử nói: “Nhân chi sơ tính bổn ác, lý tính hậu lai tập đắc”, nghĩa là con người sinh ra ban đầu vốn dĩ là ác, nhưng sau này do học tập mà có lý trí, biết cái đúng cái sai.
 Mạnh Tử và Tuân Tử đều là bậc thầy của Nho giáo thời Chiến quốc, dù có những đánh giá khác nhau về tính con người nhưng đều thống nhất rằng môi trường và sự giáo dục sẽ làm con người thay đổi, nghĩa là giáo dục đóng vai trò quyết định cho bản tính của con người trong tương lai.
 Mục tiêu của giáo dục thật sự rất rõ ràng là dạy làm người, nghĩa là rèn luyện đạo đức và nhân cách con người. Giáo dục đồng thời cung cấp kiến thức, kỹ năng để con người xây dựng cuộc sống hạnh phúc, văn minh. 
 Chính vì thế, Đảng và Nhà nước ta đã xác định: “ Giáo dục là quốc sách hàng đầu” đó là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân ta. Trong thời đại công nghệ thông tin phát triển như vũ bão hiện nay thì giáo dục càng có vai trò quan trọng hơn bao giờ hết. Làm thế nào để những chủ nhân của tương lai của dất nước có đủ cả đức và tài ? Đây chính là trách nhiệm chung của toàn xã hội, của tất cả những người làm công tác giáo dục, đặc biệt là của giáo viên chủ nhiệm lớp- người thường xuyên uốn nắn, chỉ bảo các em học sinh. Là một giáo viên chủ nhiệm lớp, tôi rất mong muốn học sinh của mình là những con ngoan, trò giỏi, có hành trang vững chắc vào đời.
 2. Cơ sở thực tiễn.
 Đất nước ngày một đi lên, chất lượng sống ngày một nâng cao kéo theo đó là những hệ lụy không nhỏ ảnh hưởng tới sự phát triển của con người, đặc biệt là thế hệ trẻ. Đạo đức của học sinh là một trong những vấn đề lo lắng của các bậc phụ huynh khi đứng trước thực trạng đạo đức của các em bị “ xuống cấp” nghiêm trọng. Truyền thống đạo lý “ Tôn sư trọng đạo”, “ Nhất tự vi sư, bán tự vi sư” bị xem nhẹ. Nhiều trò không coi thầy là cha mình ( sư phụ) như xưa mà gọi là “hắn”, “nó”, “ mụ”; chửi thầy trên face book với những lời lẽ tục tĩu, thậm chí còn đánh thầy... Bên cạnh đó là các tệ nạn xã hội xâm nhập vào môi trường học đường, nạn bạo lực học đường xảy ra thường xuyên. Đó là khó khăn rất lớn với những người làm công tác giáo dục, đặc biệt là giáo viên chủ nhiệm.
 Bản thân tôi, nhiều năm được phân công làm giáo viên chủ nhiệm lớp, với ý thức trách nhiệm, sự nỗ lực phấn đấu tìm mọi biện pháp giáo dục thích ứng để giáo dục, quản lý học sinh lớp mình phụ trách, bằng kết quả thực tiễn, đúc rút những bài học kinh nghiệm... tôi xin được trao đổi, chia sẻ cùng các bạn đồng nghiệp trong công tác của một GVCN lớp.
II. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU.
1. Mục đích
Tôi viết sáng kiến kinh nghiệm này với mong muốn :
- Ghi lại những biện pháp mình đã làm để suy ngẫm, để chọn lọc và đúc kết thành kinh nghiệm của bản thân.
- Được chia sẻ với đồng nghiệp những việc đã làm và đã thành công trong công tác chủ nhiệm lớp.
- Nhận được những lời góp‎ ‎‎ý, nhận xét từ cán bộ quản lí nhà trường, từ Ban Giám khảo của Phòng Giáo dục và từ các bạn đồng nghiệp, để tôi phát huy những mặt mạnh, điều chỉnh, khắc phục những thiếu sót cho hoàn thiện hơn.
- Rèn luyện tinh thần năng động; giữ lửa lòng say mê, sáng tạo; cố gắng học tập, tự cải tạo mình để theo kịp sự tiến bộ của thời đại.
2. Nhiệm vụ
 Với sáng kiến này tôi xác định nhiệm vụ là nghiên cứu kĩ các phương pháp để rèn luyện đạo đức, hình thành nhân cách tốt cho học sinh.
III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU.
Học sinh lớp 9C- Trường THCS Ngọc Lý.
IV. CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm thực hiện trong quá trình chủ nhiệm lớp, để nhằm rút ra cho mình một số kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm lớp.
- Phương pháp đàm thoại sử dụng trong việc tham khảo kinh nghiệm của GVCN lớp. 
- Trao đổi với học sinh, phụ huynh học sinh để tìm hiểu hoàn cảnh sống, sở thích,tính cách, suy nghĩ...của học sinh, phụ huynh học sinh.
- Ngoài ra trong quá trình nghiên cứ tôi còn sử dụng các phương pháp quan sát phương pháp nghiên cứu sản phẩm của đối tượng... Để thấy được phẩm chất bên trong và hình thức hoạt động bên ngoài của học sinh từ đó hướng tới một mục tiêu giáo dục có hiệu quả.
V. NỘI DUNG
1. Thực trạng của vấn đề: 
a. Thuận lợi :
-       Ban giám hiệu luôn quan tâm đến chất lượng dạy và học.
-       Các ban ngành, đoàn thể luôn tạo điều kiện giúp đỡ hỗ trợ nhiệt tình về mọi mặt.
-       Ngay từ đầu năm học trường đã tổ chức được cuộc họp với phụ huynh để chấn chỉnh nề nếp học tập của các em.
-       Là giáo viên chủ nhiệm nhiều năm lớp 9.
-       Bản thân nhiệt tình trong công tác, hết lòng vì học sinh thân yêu.
b. Khó khăn :
 Đầu năm 2013- 2014, tôi được nhà trường phân công chủ nhiệm lớp 9C. Đây là lớp được chia tách từ 2 lớp 9BC của năm học 2012- 2013.
- Tỉ lệ học sinh trong lớp có lực học trung bình và yếu cao.
- Phần lớn các em rất lười học, thường xuyên bỏ giờ, bỏ buổi học tự do.
- Nhiều em còn ham chơi, không chú ý học
- Nhiều em có hoàn cảnh khó khăn, hoàn cảnh đặc biệt ( Ở với ông bà vì cha mẹ đi làm ăn xa, cha mẹ ly hôn...)
- Phụ huynh chưa có sự quan tâm nhiều đến con em mình.
- Phụ huynh ít gặp gỡ giáo viên để trao đổi về việc học tập, sinh hoạt của con em mình ở trường cũng như ở nhà.
- Trình độ tiếp thu của học sinh không đồng đều.
2. Một số kinh nghiệm trong quá trình chủ nhiệm lớp.
2.1: Yêu cầu với giáo viên chủ nhiệm.
-  Trước hết phải xuất phát từ lòng yêu nghề, mến trẻ, người Giáo viên thực sự là tấm gương sáng cho học sinh noi theo; tạo được uy tín đối với học sinh, có đạo đức, tác phong  sinh họat mẫu mực.Vì chỉ có “Yêu nghề, mến trẻ”, người GVCN mới toàn tâm, toàn sức cho công việc giáo dục của mình. Và cũng chỉ có tình thương, mới khơi gợi được tình thương; tình thương mơi tạo cho con người lối sống đẹp- Đây là yếu tố quan trọng, lương tâm nhà giáo - Trong mắt nhìn, trong suy nghĩ của học sinh, bao giờ hình ảnh của người thầy, người cô cũng là tấm gương sáng để các em noi theo. Bởi vậy sự chuẩn mực của ta, trong ứng xử, giao tiếp với các em là hết sức cần thiết. những lời nói ân cần ,cách xưng hô chuẩn mực, gần gũi sẽ tạo được sự hòa đồng, dễ chia sẻ, cảm thông ở học sinh. và sự ân cần này phải được duy trì mọi lúc, mọi nơi. Ví dụ: trước một sai sót nhỏ, lời “ xin lỗi” sẽ giúp cho các em ý thức được trong mọi việc làm của mình. hoặc mỗi lần có một học sinh có lỗi , tôi thường chỉ bảo các em: “Khi có lỗi, biết nhận lỗi và sửa sai là điều quan trọng hơn cả”.nhiều lần như thế, mưa lâu thấm đất, chắc chắn học sinh sẽ ý thức được việc sửa sai của mình...Trước những tình cảm và việc làm đó của tôi, đã tác động tích cực đến nhiều học sinh, thậm chí là nhiều lớp học sinh đi qua tôi đã trưởng thành và nên người. Thứ nữa, với phong trào "Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực" thì vấn đề xây dựng mối quan hệ giữa thầy và trò, giữa trò với trò ...là vấn đề cần thiết
- GVCN phải tìm hiểu, nắm bắt đựợc tình hình của lớp, nhất là số học sinh cá biệt để có sự linh hoạt trong vận dụng các phương pháp giáo dục thích hợp. Việc giáo dục học sinh không phải lúc nào cũng cứng nhắc, rập khuôn vì mỗi em mỗi tính cách, mỗi sở thích, mỗi hoàn cảnh...nắm bắt được hoàn cảnh ,đặc điểm ,tính cách của từng em sẽ giúp ta vận dụng được phương pháp giáo dục thích ứng.Trong số những học sinh cá biệt, có em điều đó thể hiện ngay trên nét mặt, cử chỉ, hành động; có em,điều đó tiềm ẩn ở bên trong...nguyên nhân tạo ra sự cá biệt đó có thể do hoàn cảnh gia đình, do bản tính, do tác động của môi trường xung quanh, hoặc do bè bạn đua đòi, rủ rê...Biết được các nguyên nhân đó, người GVCN sẽ có cách giáo dục thích hợp. Kinh nghiệm cho thấy, hầu như các em học sinh cá biệt đều ưa ngọt...GVCN mền dẻo trong các phương pháp sẽ dễ thành công hơn.Với bản thân tôi , phương pháp cảm hóa là chủ yếu, và nhất là lời nói phải đi đôi với việc làm.
2.2.Công tác tổ chức lớp :
* Nắm thông tin về học sinh
 Mỗi giáo viên chủ nhiệm lớp, muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, muốn đề ra các biện pháp giáo dục học sinh phù hợp, đạt hiệu quả thì trước hết giáo viên phải hiểu học sinh, phải nắm được đầy đủ các thông tin cần thiết về từng học sinh. Do vậy, ngay từ ngày đầu nhận lớp, tôi thực hiện ngay công tác điều tra thông qua phiếu sau đây. Tôi phát cho mỗi em một phiếu điều tra và yêu cầu các em điền đầy đủ 10 thông tin trong phiếu:
GIỚI THIỆU BẢN THÂN
 1. Họ và tên:...............
 2. Ngày..... tháng......năm sinh........Dân tộc..........tôn giáo....................................
 3. Địa chỉ nhà.........................................................................................................
 4. Kết quả học tập năm lớp 8: Học lực..........Hạnh kiểm......................................
 5.Họ tên cha.......................................Nghề nghiệp.......................................... ... c ghi 10 điểm, cách chấm điểm có thể được qui định như sau:
1) Chuyên cần:-Vắng p = -1 ;k = -3 ; đi muộn = -2.
    - Bỏ học = -10 (Làm việc với PHHS, qui về ý thức...)
    - Lưu ý :vắng có phép , PHHS phải trực tiếp đến xin, việc này đã thỏa thuận trong buổi họp PHHS đầu năm
2) Tác phong:
- Mỗi trường hợp vi phạm = -1đ; vi phạm bao nhiêu lần trừ bấy nhiêu điểm
3) Học tập: được tính theo điểm miệng, và quá trình xây dựng bài.
- Điểm 10= +2 ; điểm 8 , 9 = +1 ; điểm 1 = -2 ; điểm 2 ,3 = -1.
- Xây dựng bài tốt =+1 ; Vi phạm quay cóp = -5.
4) Trật tự:
- Nói chuyện gây mất trật tự trong lớp =-1;
- Mất trật tự ,bị ghi sổ đầu bài = -2.
- Gây gổ, đánh nhau = -5.
5) Phong trào: Bất kỳ cá nhân nào tham gia hoạt động bề nổi của nhà trường đạt yêu cầu, mỗi trường hợp = +10.
- Các buổi ngoại khóa vắng = -3, vắng thể dục giữa giờ, vẫn tính vắng như giờ chính khóa.
- Một học kỳ vắng 2 buổi ngoại khóa =hạ 1 bậc hạnh kiểm.
 Ngoài ra, thông qua sổ đầu bài, GV có nhiều biện pháp giáo dục, uốn nắn, chấn chỉnh kịp thời
- Với những trường hợp vắng nhiều, GVCN kịp thời liên lạc với PHHS để làm sáng tỏ vấn đề. Nếu ốm đau, cử học sinh trong lớp thăm hỏi, an ủi và phân công chép bài, giảng bài. Nếu vì hoàn cảnh gia đình thì tìm cách giúp đỡ , an ủi. Nếu vi phạmbỏ học, cần giải quyết nhanh chóng, kịp thời và dứt khoát.
- Với những học sinh vi phạm không thuộc bài, không làm bài tập:
+ Có thể cuối buổi yêu cầu ở lại học, hoặc làm bài, một phần báo cho phụ huynh biết, phần  khác GVCN hoặc cử cán bộ lớp giám sát, kiểm tra bài.
2.3 Xây dựng mối quan hệ thầy- trò. 
 Trước đây, quan hệ thầy, trò là quan hệ chịu ơn- ban ơn; bề trên- kẻ dưới; giảng giải- ghi nhớ. Ngày nay, quan hệ này được thay bằng quan hệ phân công- hợp tác. Thầy thiết kế- trò thi công. Thầy làm mẫu, giao việc- trò làm theo mẫu của thầy. Mỗi lời thầy nói ra phải là một “lệnh” (một lời giao việc). Do vậy, mọi yêu cầu tôi đưa ra, học trò phải thi hành thật nghiêm. Ngay từ đầu, tôi yêu cầu học trò phải cố gắng làm cho đúng. Nếu chưa đúng thì phải làm lại cho đúng mới thôi. Đúng là đúng từ việc làm, nghiêm là nghiêm trong việc làm chứ không phải ở thái độ khắt khe, gay gắt. Quan hệ cơ bản nhất của tôi và học trò là quan hệ hợp tác làm việc: tôi giao việc- học trò làm; tôi hướng dẫn- học trò thực hiện.
 - Khi giao việc, tôi chỉ nói một lần, nhưng chỉ nói khi lớp trật tự. Với cách làm này, tự nhiên thầy sẽ trở nên nói ít, học trò sẽ làm nhiều. Làm việc như thế nào thì đạo đức, ý thức sẽ kèm theo như thế ấy. Làm đến nơi đến chốn thì ý thức kỉ luật cũng đến nơi đến chốn.
 - Hành vi của giáo viên sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tâm lí cũng như sự hình thành tính cách của học sinh. Vì vậy, khi lên lớp, tôi luôn chú ý đến cả cách đi đứng, nói năng, cách ăn mặc, cách cầm sách, chữ viết, thái độ,...để học trò noi theo. Không vì bất cứ lí do gì mà tôi cho phép mình cẩu thả hoặc xuề xòa, qua loa trước mặt học sinh. 
 - Khi có học sinh mắc sai lầm, thiếu sót, tôi luôn cố gắng kiềm chế và tôn trọng học sinh, tìm hiểu cặn kẽ thấu đáo nguyên nhân để có biện pháp giúp đỡ các em sửa chữa. Tôi không bao giờ có những lời nói, cử chỉ xúc phạm các em. Ở tuổi này, lòng tự trọng của các em rất cao, chỉ một lời nói xúc phạm sẽ làm các em tự ái. Thậm chí có em sẽ oán hận, căm ghét thầy cô, bỏ học và không bao giờ trở lại lớp học nữa cho dù có nhiều người đến nhà vận động.
 Qua nhiều năm làm công tác chủ nhiệm lớp, tôi biết rằng có những em học yếu hoặc có hôm không học bài, làm bài nhưng lỗi không phải hoàn toàn là do các em. Có em ham chơi nên quên học bài, có em do bị mất căn bản từ các lớp dưới. Nhưng cũng có em học yếu, hoặc không học bài làm bài là do những điều kiện khách quan. Gia đình của các em đâu phải lúc nào cũng đầm ấm, hạnh phúc; đâu phải em nào cũng may mắn dược bố mẹ, ông bà động viên trong mỗi bước học tập.Và có biết bao nhiêu bố mẹ phải lo làm thuê, làm mướn kiếm sống hoặc vì ăn chơi cờ bạc hay ốm đau bệnh hoạn,...nên không ngó ngàng gì đến việc học của con cái, thậm chí các em còn bị mắng chửi, bị đánh đập ... Những sóng gió đó đã tác động đến tâm lí của các em, cản trở việc học tập của các em. Nếu như giáo viên không biết được những nguyên nhân đó thì rất dễ nổi giận đùng đùng, rồi la mắng, trừng phạt các em. Điều đó rất bất lợi cho quan hệ thầy- trò sau này. Vì vậy, đứng trước một học sinh quậy phá, hay lơ đãng không học bài, làm bài, tôi không kết án trừng phạt ngay mà bình tĩnh chờ đến hết buổi học gặp riêng các em để hỏi cho rõ nguyên nhân. Lần đầu các em vi phạm, tôi nhẹ nhàng nhắc nhở. Nếu lần thứ hai, các em vẫn tái phạm, tôi phải đến nhà tìm hiểu nguyên nhân để có biện pháp giúp đỡ, giáo dục các em.
 - Hàng ngày, tôi luôn khích lệ và biểu dương các em kịp thời, ca ngợi những ưu điểm của các em nhiều hơn là phê bình khuyết điểm. Tôi cố tìm ra ngững ưu điểm nhỏ nhất để khen ngợi động viên các em. Nhưng trong khi khen, tôi cũng không quên chỉ ra những thiếu sót để các em khắc phục và ngày càng hoàn thiện hơn. 
 - Khi nói chuyện, khi giảng, cũng như khi nghiêm khắc phê bình lỗi lầm của học sinh, tôi luôn thể hiện cho các em thấy tình cảm yêu thương của một người thầy đối với học trò. Theo qui luật phản hồi của tâm lí, tình cảm của thầy trước sau cũng sẽ được đáp lại bằng tình cảm của học trò. Lòng nhân ái, bao dung, đức vị tha của người thầy luôn có sức mạnh to lớn để giáo dục và cảm hóa học sinh. “Lớp học thân thiện” chỉ có được khi người thầy có tấm lòng nhân hậu, bao dung, hết lòng vì học sinh thân yêu của mình. Có một người thầy như vậy thì chắc chắn học sinh sẽ chăm ngoan, tích cực và ham học, thích đi học.
2.4. Phối kết hợp các môi trường giáo dục.
* Kết hợp với phụ huynh:
- Thường xuyên liên hệ, trao đổi với phụ huynh để cùng phối hợp giáo dục, động viên giúp đỡ kịp thời từng học sinh nhất là đối với những học sinh cá biệt để nâng cao chất lượng học tập, rèn luyện phát triển trí tuệ, năng lực.
- Tôi trao đổi với phụ huynh bằng nhiều hình thức như : có thể gặp trực tiếp hoặc trao đổi qua điện thoại mỗi khi có sự việc cần trao đổi ngay, đôi chỉ là những thăm hỏi việc học tập sinh hoạt của học sinh ở nhà để tìm nguyên nhân học sa sút hay cùng nhau phối hợp để giúp HS tiến bộ. 
- Thông qua các lần họp phụ huynh tôi lại có cơ hội được bày tỏ cách làm việc của mình trên lớp, thông báo cụ thể tình hình của từng em về mọi mặt để phụ huynh thấy ưu điểm và tồn tại của con em mình đồng thời tôi cũng lắng nghe để hiểu những tâm tư, nguyện vọng của họ cùng nhau bàn bạc thống nhất cách giáo dục con em mình cho phù hợp.
- Tổ chức thăm hỏi, động viên gia đình học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn và kiến nghị lên nhà trường giúp đỡ.
* Phối hợp với các giáo viên bộ môn.
- Thường xuyên thông báo, trao đổi với giáo viên bộ môn về tình hình học tập của lớp, cũng như của từng học sinh, để giáo viên nắm bắt được khả năng, trình độ của các em, từ đó có phương pháp dạy thích hợp.
- Thường xuyên kiểm tra sổ đầu bài của lớp rồi trao đổi cùng giáo viên bộ môn về những nhận xét các tiết học. Đề nghị các giáo viên bộ môn ghi thật cụ thể lỗi của từng học sinh để có biện pháp xử lý thích hợp.
* Phối hợp với Đội Thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh
- Thông qua các hoạt động của Đội, các em được rèn luyện thêm nhiều phẩm chất của người học sinh: Tình đoàn kết, lòng nhân ái... Vì vậy giáo viên chủ nhiệm sẽ
thông qua các giờ ngoại khóa giúp các em hình thành kĩ năng sống.
- Thông qua Đội, giáo viên sẽ nắm được thi đua của lớp trong tuần. Từ đó sẽ có biện pháp động viên hoặc nhắc nhở kịp thời.
IV. KẾT QUẢ 
- Với những biện pháp nêu trên, tôi thật sự vui mừng vì sự đầu tư của mình đã đạt được kết quả tốt. Đa số HS của lớp tôi chủ nhiệm có ý thức, kỉ luật cao. Biết phê và tự phê bình.
- Đa số học sinh trong lớp đã có tinh thần tự giác cao, có tinh thần tự học. Giờ truy bài thực sự hữu ích với các em vì đó chính là giờ tự học, tự kiểm tra rất có kết quả.
- Các em mạnh dạn trình bày ý kiến và mong muốn của mình trước tập thể. Các cán bộ lớp thực sự năng động hơn.
- Có tinh thần đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau trong học tập. Ý thức chấp hành nội quy của trường tốt .
* Cụ thể:
Kết quả cuối năm học 2012- 2013:
Lớp
Sĩ số
Học lực
Hạnh kiểm
9C
Giỏi
Khá
TB
Yếu
Kém
Tốt
Khá
TB
Yếu
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
Kết quả cuối học kì I năm học 2013- 2014:
VII. TRIỂN VỌNG 
 Qua việc áp dụng sáng kiến kinh nghiệm trên, tôi nhận thấy hiệu quả rất thiết thực thể hiện bằng chính sự tiến bộ rõ rệt của học sinh. Bản thân tôi cũng nhận được sự tin tưởng, yêu quý của học sinh, của gia đình học sinh và góp phần nhỏ bé vào sự thành công của nhà trường.
VIII. KẾT LUẬN
 Giáo dục là vấn đề chính trị - xã hội quan trọng, có giá trị cơ bản và lâu dài, có tính quyết định đối với cuộc đời cá nhân mỗi người. Vì vậy, người giáo viên chủ nhiệm lớp có một vị trí đặc biệt quan trọng. Lao động của một giáo viên chủ nhiệm lớp là lao động sáng tạo không ngừng, sự sáng tạo đó đòi hỏi phải toàn diện: sáng tạo trong soạn giảng, trong tổ chức các hoạt động học tập, vui chơi, trong sinh hoạt tập thể và đặc biệt là trong các biện pháp giáo dục đạo đức và rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh. Vì vậy chỉ có những giáo viên thực sự tâm huyết với nghề, thực sự thương yêu học sinh của mình thì mới có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ.
 Trên đây là một số kinh nghiệm của bản thân trong công tác chủ nhiệm lớp. Trong bài viết này sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, tôi rất mong các đồng chí phụ trách chuyên môn Phòng Giáo dục&Đào Tạo Tân Yên, các bạn đồng nghiệp đóng góp ý kiến để tôi có thêm nhiều kinh nghiệm quí báu kịp thời bổ sung cho bản thân góp phần nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác chủ nhiệm, góp một phần vào sự nghiệp giáo dục chung của huyện nhà.
 Ngọc Lý, ngày 26 tháng 4 năm 2014
 Người viết sáng kiến
 Nguyễn Thị Thùy Liêm

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_cong_tac_chu_nhiem_lop.doc