Sáng kiến kinh nghiệm Cách dạy trẻ tự kỷ phát triển ngôn ngữ và khả năng giao tiếp
Tự kỷ đang ngày càng trở thành vấn đề nóng bỏng trong giáo dục đặc biệt,
bởi trong những năm gần đây, số ca chẩn đoán tự kỷ ngày càng tăng. Cứ 110 trẻ
em ở Mỹ thì có 1 trẻ em mắc rối loạn tự kỷ, ở Việt Nam cứ 50 gia đình thì có 1
gia đình có trẻ tự kỷ và số trẻ được chẩn đoán tự kỷ đang tăng mạnh hàng năm,
con số đó được so với số trẻ em trong độ tuổi mầm non, con số trẻ tự kỷ chắc
chắn rất lớn. Đây là thách thức với xã hội nói chung và ngành giáo dục đặc biệt
nói riêng.
Để nhấn mạnh sự phức tạp, nghiêm trọng của chứng tự kỷ và tác động của
nó đối với cộng đồng nên năm 2007 Liên hiệp quốc đã chọn ngày 02/4 là “Ngày
thế giới nhận biết về chúng tự kỷ”. Những trẻ tự kỷ, thiếu hay chậm phát triển về
khả năng liên hệ qua lại trong xã hội, không sử dụng được ngôn ngữ trong sinh
hoạt xã hội, không thông hiểu các hình ảnh ký hiệu và không biết chơi các trò
cần sức tưởng tượng. Trẻ cũng có hành vi lặp đi lặp lại và nhạy cảm giác quan.
Những trẻ này có khuynh hướng khó khăn trong học tập và nhiều trẻ bị khiếm
khuyết về trí tuệ. Do vậy, việc tìm ra “Cách dạy trẻ tự kỷ phát triển ngôn ngữ
và khả năng giao tiếp” là một điều quan trọng thiết yếu. Đó cũng là tâm
nguyện của chúng tôi (những người làm công tác giáo dục), bằng mọi cách giúp
trẻ tự kỷ nói được bằng chính ngôn ngữ bình thường và giao tiếp tốt với xã hội.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Cách dạy trẻ tự kỷ phát triển ngôn ngữ và khả năng giao tiếp
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM CÁCH DẠY TRẺ TỰ KỶ PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ VÀ KHẢ NĂNG GIAO TIẾP I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Tự kỷ đang ngày càng trở thành vấn đề nóng bỏng trong giáo dục đặc biệt, bởi trong những năm gần đây, số ca chẩn đoán tự kỷ ngày càng tăng. Cứ 110 trẻ em ở Mỹ thì có 1 trẻ em mắc rối loạn tự kỷ, ở Việt Nam cứ 50 gia đình thì có 1 gia đình có trẻ tự kỷ và số trẻ được chẩn đoán tự kỷ đang tăng mạnh hàng năm, con số đó được so với số trẻ em trong độ tuổi mầm non, con số trẻ tự kỷ chắc chắn rất lớn. Đây là thách thức với xã hội nói chung và ngành giáo dục đặc biệt nói riêng. Để nhấn mạnh sự phức tạp, nghiêm trọng của chứng tự kỷ và tác động của nó đối với cộng đồng nên năm 2007 Liên hiệp quốc đã chọn ngày 02/4 là “Ngày thế giới nhận biết về chúng tự kỷ”. Những trẻ tự kỷ, thiếu hay chậm phát triển về khả năng liên hệ qua lại trong xã hội, không sử dụng được ngôn ngữ trong sinh hoạt xã hội, không thông hiểu các hình ảnh ký hiệu và không biết chơi các trò cần sức tưởng tượng. Trẻ cũng có hành vi lặp đi lặp lại và nhạy cảm giác quan. Những trẻ này có khuynh hướng khó khăn trong học tập và nhiều trẻ bị khiếm khuyết về trí tuệ. Do vậy, việc tìm ra “Cách dạy trẻ tự kỷ phát triển ngôn ngữ và khả năng giao tiếp” là một điều quan trọng thiết yếu. Đó cũng là tâm nguyện của chúng tôi (những người làm công tác giáo dục), bằng mọi cách giúp trẻ tự kỷ nói được bằng chính ngôn ngữ bình thường và giao tiếp tốt với xã hội. Thực trạng trước khi thực hiện các giải pháp của đề tài: Trung tâm Nuôi dạy trẻ khuyết tật Đồng Nai là một trường chuyên biệt nuôi dạy trẻ khiếm thính, khiếm thị và chậm phát triển trí tuệ là con em của nhân dân lao động trong tỉnh. - Các trẻ chậm phát triển trí tuệ tại Trung tâm thường có biểu hiện tự kỷ, các trẻ này có chỉ số IQ = 70. Do đa số trẻ tự kỷ khó làm các test trí tuệ (nhất là các test dùng lời nói). - Các trẻ tự kỷ có IQ thấp, thường kèm theo các khiếm khuyết nặng về kỹ năng quan hệ xã hội và có nhiều đáp ứng xã hội lệch lạc. Việc dạy trẻ tự kỷ phát triển ngôn ngữ và khả năng giao tiếp với xã hội tại trường có những thuận lợi và khó khăn như sau: 1. Thuận lợi: - Trẻ mắc bệnh tự kỷ vẫn có thể phát huy những khả năng của bản thân nếu ảnh hưởng tự kỷ nhẹ, được phát hiện sớm, can thiệp kịp thời và hỗ trợ đúng cách. Có một tỷ lệ nhỏ trẻ tự kỷ trở thành những thiên tài. - Trẻ mắc bệnh tự kỷ khó tiếp thu ngôn ngữ, nhưng lại nhạy bén về hình ảnh, khi thấy trẻ không hiểu lời nói thì giải thích bằng hình ảnh. - Nói chuyện với trẻ này bằng những ngôn từ thật đơn giản, dễ hiểu nhất. - Mọi người đều thương yêu các trẻ này. - Bệnh tự kỷ có thể chữa khỏi. 2. Khó khăn: - Trẻ tự kỷ có vẻ lơ đãng, không lắng nghe. Vốn từ và giao tiếp xã hội của trẻ dạng này rất hạn chế. - Trẻ tự kỷ khó tiếp thu ngôn ngữ. - Người tự kỷ là mối đe dọa cho xã hội. II. TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI: 1. Cơ sở lý luận: - Khi cuộc sống ngày càng phát triển với những khả năng giao tiếp ảo ngày càng phổ biến thì dường như con người càng có xu hướng sống biệt lập và ít giao tiếp với cộng đồng. Ảnh hưởng của lối sống công nghiệp cùng với sự phát triển của internet dường như làm cho bệnh tự kỷ có xu hướng phát triển. Trẻ em là đối tượng dễ mắc căn bệnh này. Nguyên nhân gây bệnh tự kỷ là một rối loạn ở não đi kèm với một loạt những vấn đề về phát triển, chủ yếu là về giao tiếp và tương tác với xã hội. Bệnh hay gặp ở các bé trai gấp 4 lần các bé gái. - Tự kỷ là căn bệnh của thời đại mà nạn nhân chính là trẻ em. Quá trình điều trị bệnh ít tốn kém nhưng mất khá nhiều thời gian. - Tự kỷ là một nhóm hội chứng được đặc trưng bởi suy kém nặng nề và lan toả trong những lĩnh vực phát triển: tương tác xã hội, giao tiếp và sự hiện diện của những hành vi rập khuôn Tự kỷ là một loại khuyết tật phát triển suốt đời do rối loạn của hệ thần kinh gây ảnh hưởng đến hoạt động của não bộ. Tự kỷ có thể xảy ra không phân biệt giới tính, chủng tộc, giàu nghèo và địa vị xã hội. Tự kỷ được thể hiện ra ngoài bằng các khiếm khuyết về tương tác xã hội, giao tiếp ngôn ngữ và phi ngôn ngữ, hành vi, sở thích và hành động mang tính hạn hẹp và lặp đi lặp lại. - Hầu hết các trẻ tự kỷ đều có suy kém về mặt nhận thức ở tất cả các lãnh vực, trẻ tự kỷ mất ngôn ngữ và kỹ năng xã hội. 2. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài: Để dạy trẻ tự kỷ phát triển ngôn ngữ và khả năng giao tiếp tốt, chúng ta có thể vận dụng các bài tập sau đây: a) “Dạy cho trẻ học cách nghe” - Sử dụng các dấu hiệu để gia tăng sự chú ý của trẻ, ví dụ chạm vào tai trẻ để “nghe” và chạm vào má để “nhìn”. - Khi bạn bắt đầu nói với trẻ, hãy sử dụng tên trẻ và đợi đến khi bạn nghĩ là bạn đã đạt được sự chú ý lớn nhất từ trẻ và trẻ đã có khả năng hiểu được câu “Phú nghe đây!” - Khi làm việc hoặc chơi với trẻ, cố giảm bớt tiếng ồn xung quanh hoặc những điều làm giảm sự tập trung. - Hãy nói hoặc hát một cách lặng lẽ bên cạnh trẻ trong khi làm các công việc hàng ngày của bạn, hãy sử dụng các bài hát quen thuộc và hàng ngày, hãy nói những điều có liên quan đến thời gian trong ngày (lúc ăn, lúc tắm, lúc ngủ) và những điều được nhắc đi nhắc lại hàng ngày. - Giới thiệu cho trẻ một loạt các âm thanh của các tiếng động khác nhau và cường độ khác nhau. - Sử dụng âm nhạc và các động tác để giúp bạn giao lưu với trẻ, hãy hát với trẻ. Tạo ra các bài hát về những điều mà bạn và trẻ thường cùng làm và sử dụng các nhịp điệu quen thuộc, hãy khuyến khích trẻ phối hợp, nhảy hoặc lắc lư đúng nhịp của âm nhạc, hãy nhấc bổng trẻ lên và nhảy hoặc quay tròn trẻ. - Hãy sử dụng các bài hát và nhịp điệu có tính chất hành động đơn giản rồi cố tạo ra sự tạm ngưng cho thời điểm thú vị nhất. Hãy kéo dài việc tạm ngưng để trẻ có thể có sự phản ứng. - Hãy động viên trẻ ngồi yên, và nhìn, nghe trong các giai đoạn ngắn (lúc đầu rất ngắn sau dài dần), trẻ có thể thích có một cái đệm để ngồi trong khi các bạn đang ngồi nghe băng hay trò chuyện cùng nhau. - Hãy đảm bảo cho trẻ sự thoải mái và làm tất cả những gì có thể để ngăn chặn các âm thanh làm trẻ buồn chán. Cần thiết thì đưa trẻ đi chỗ khác đối với âm thanh bạn không thể kiểm soát được thì hãy thông báo cho trẻ khi tiếng động bắt đầu. Để bắt đầu, trước hết hãy để trẻ ở phòng khác với một ai đó, sau đó khi bạn thấy trẻ đã quen thì hãy giúp trẻ chấp nhận nhiều hơn, mang trẻ lại gần hơn nơi có tiếng động, chỉ có thể dần dần chờ đợi ở trẻ sự cố gắng chấp nhận bởi bản thân trẻ. Đôi khi bạn có thể sử dụng các âm thanh mà trẻ không thích với cường độ nhẹ hơn, mềm hơn để trẻ chấp nhận dần. Bạn có thể sử dụng băng hoặc đĩa cho mục đích này. - Khi bạn kiểm soát mức độ tiếng động cho trẻ, hãy sử dụng các câu như “quá ồn” hoặc “vặn khẽ đi”. Nếu trẻ có thể tự sử dụng các từ như vậy, hãy động viên trẻ khi trẻ bắt đầu bắt chước điều bạn nói. Điều này tốn khá nhiều thời gian và hãy tin rằng một ngày nào đó trẻ tự nói được những từ như vậy. b) “Dạy cho trẻ cách nhìn – mặt đối mặt” - Tạo nên mối quan hệ với trẻ bằng mọi cách có thể, nên sử dụng cách nhìn, nghe, sờ mó. - Khi bạn muốn trẻ nhìn bạn, hãy đứng trước tầm nhìn của trẻ mà nói: “Phú hãy nhìn cô!” - Bạn có thể tạo sự giúp đỡ bằng việc sờ vào má trẻ và từ từ quay đầu trẻ về phía bạn, nếu trẻ nghe hãy gọi tên trẻ. - Hãy khuyến khích trẻ nhận biết vẻ mặt, ngón chân, ngón tay, cả của bạn và của trẻ. Hãy chơi trò chơi và hát bài hát nhấn mạnh những bộ phận của cơ thể. - Khi bạn thấy rằng trẻ quan tâm đến chiếc hoa tai hay chiếc vòng bạn đeo trên cổ, hãy sử dụng vật đó để thu hút sự chú ý của trẻ, hãy di chuyển đầu của bạn từ từ để tạo ra sự giao tiếp bằng mắt nếu có thể. - Hãy đội một cái mũ lạ thường hoặc đặt một cái gì đó ngộ nghĩnh lên đầu bạn, lấy chúng để trước mắt bạn sau đó nhìn về phía trẻ và mỉm cười. - Thổi bọt xà phòng một cách nhẹ nhàng, khuyến khích trẻ nhìn bọt xà phòng bay nổi và vỡ ra. Cố gắng để bọt xà phòng bay thấp xuống dưới và bay qua mặt bạn, bạn có thể cố gắng hiểu được cách nhìn chằm chằm của trẻ khi bọt xà phòng bay qua. - Nếu bạn thấy rằng trẻ đang nhìn cái gì đó, hãy nói với trẻ về cái đó và đưa vật đó vào tầm nhìn của trẻ khi bạn nói, nếu bạn thấy rằng trẻ nhìn bạn, hãy trả lời cùng với nụ cười thân thiện hoặc nói chuyện với trẻ, thay đổi một cách tự nhiên nhưng hãy cố gắng hiểu được cái nhìn của bé và lặp lại. - Hãy cố gắng giao tiếp bằng mắt khi bạn chơi với trẻ, ngừng lại bất thình lình trong khi hy vọng rằng trẻ nhìn bạn, nếu trẻ làm như thế, bạn hãy xử sự như đó là dấu hiệu để kêu gọi, nếu có thể bạn hãy phát triển thành trò chơi quay người lại để nói chuyện. - Nếu trẻ nhìn chằm chằm, hãy cố gắng đừng ngượng nghịu nhưng hãy quay lưng lại, chớp lấy cái nhìn của trẻ và sau đó nhìn đi chỗ khác, một lúc sau nhìn lại một cách tự nhiên. - Hãy chơi trò đuổi bắt hoặc chơi trò chạy, dừng lại với câu nói: chuẩn bị, sẵn sàng; rồi ra hiệu “chạy”, khuyến khích trẻ nhìn bạn nếu bạn nhìn trẻ lúc trẻ chạy. - Hãy vỗ nhẹ vào tay, lưng, vai của trẻ một cách kiên quyết để thu hút sự chú ý của trẻ, hãy lấy cái gì đó đằng sau bạn để chỉ cho trẻ hoặc xoè tay bạn ra để chỉ cho trẻ thấy cái bạn giấu trong tay. c) “Thu hút sự chú ý của trẻ” - Hãy chỉ cho trẻ thấy những điều bạn thấy thích thú dù rằng bạn có thể nhận được rất ít phản ứng từ trẻ. Hãy chú ý đến trẻ và nhận xét với những điều mà trẻ đang làm. - Hãy liên hệ điều mà bạn khen ngợi, chú ý và các dấu hiệu ảnh hưởng một cách trực tiếp với những việc trẻ đang làm. - Làm cho sự hiện diện của bạn rõ ràng và lý thú hơn, hãy chọn và làm những điều mà bạn cho rằng trẻ có thể thấy thích thú. Hãy mang những việc bạn đang làm đến gần trẻ để thu hút sự chú ý của trẻ. - Chỉ cho trẻ những vật đặc biệt, nếu bạn có thể chạm vào chúng khi bạn và trẻ đang chơi ở ngoài, hãy cố gắng làm việc này thật đơn giản mỗi khi chỉ một vật, hãy nói một cách đơn giản về những điều mà bạn và trẻ đang nói tớ
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_cach_day_tre_tu_ky_phat_trien_ngon_ngu.pdf

