SKKN Rèn luyện tư duy học sinh để giải nhanh các bài tập áp dụng định luật bảo toàn
Với mong muốn giúp học sinh nhận ra và khắc phục những hạn chế trong
quá trình giải bài tập áp dụng các định luật bảo toàn, giúp các em nắm vững, nắm
chắc những kiến thức cơ bản về mảng kiến thức này, có thể tự mình giải quyết
những bài tập cơ bản trong sách giáo khoa và sách bài tập hoặc những bài tập
nâng cao hơn một chút để các em thấy say mê hơn với môn Hóa, tôi mạnh dạn
viết sáng kiến kinh nghiệm : “Rèn luyện tư duy học sinh để giải nhanh các bài
tập áp dụng định luật bảo toàn” áp dụng cho các khối lớp ở trường THPT Ba Vì
trong năm học 2011 - 2012 với đối tượng chủ yếu là học sinh trung bình, yếu, hy
vọng phần nào giúp các em làm được những bài tập hóa học một cách nhanh nhất
và chính xác nhất để đáp ứng cho quá trình kiểm tra và thi theo hình thức trắc
nghiệm.
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Rèn luyện tư duy học sinh để giải nhanh các bài tập áp dụng định luật bảo toàn

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM RÈN LUYỆN TƯ DUY HỌC SINH ĐỂ GIẢI NHANH CÁC BÀI TẬP ÁP DỤNG ĐỊNH LUẬT BẢO TOÀN MỤC LỤC STT NỘI DUNG TRANG ĐẶT VẤN ĐỀ 1 Lý do chọn đề tài 2 2 Thực trạng 4 3 Mục đích 4 4 Nhiệm vụ , yêu cầu nghiên cứu 5 5 Đối tượng nghiên cứu 5 5 Phương pháp nghiên cứu 5 6 Phạm vi nghiên cứu và thời gian nghiên cứu 6 7 Điều tra cơ bản ban đầu 6 GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 9 Kiến thức cần sử dụng 7 10 Ví dụ vận dụng 9 11 Bài tập tự giải 23 12 Kết quả thu được sau khi áp dụng đề tài 25 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 13 Kết luận 26 14 Điều kiện áp dụng 27 15 Kiến nghị 27 TÀI LIỆU THAM KHẢO SƠ YẾU LÝ LỊCH Họ và tên : Ngày, tháng, năm sinh : Năm vào nghành : Chức vụ : Đơn vị công tác : Trình độ chuyên môn : Hệ đào tạo : Chuyên ngành : Bộ môn giảng dạy : Trình độ ngoại ngữ : Trình độ chính trị : ĐỖ THỊ NGÂN 18 - 11 - 1986 2010 Giáo viên Trường THPT Ba Vì Cử nhân Chính quy Hóa học Toán học Tiếng Anh B Sơ cấp A - ĐẶT VẤN ĐỀ I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1. Cơ sở lý luận Trong quá trình dạy học môn Hóa học, bài tập được xếp trong hệ thống phương pháp giảng dạy (phương pháp luyện tập), phương pháp này được coi là một trong các phương pháp quan trọng nhất để nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn. Thông qua việc giải bài tập, giúp học sinh rèn luyện tính tích cực, trí thông minh, sáng tạo, bồi dưỡng hứng thú trong học tập. Việc lựa chọn phương pháp thích hợp để giải bài tập lại càng có ý nghĩa quan trọng hơn. Mỗi bài tập có thể có nhiều phương pháp giải khác nhau. Nếu biết lựa chọn phương pháp hợp lý, sẽ giúp học sinh nắm vững hơn bản chất của các hiện tượng hoá học. Để đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp kiểm tra, đánh giá kết quả học tập và thi theo hình thức trắc nghiệm khách quan đòi hỏi học sinh phải có kĩ năng giải nhanh và chính xác bài tập trong thời gian ngắn nhất. Muốn làm được điều đó học sinh cần phải nắm vững những kiến thức cơ bản và áp dụng thành thạo vào các bài tập. Giải nhanh các bài tập hóa học áp dụng định luật bảo toàn là một trong những kĩ năng mà học sinh cần phải có nhưng nó lại là bài toán khó với nhiều học sinh, kể cả học sinh khá, giỏi. Với mong muốn giúp các em học sinh hiểu được những kiến thức cơ bản và thấy yêu thích môn Hóa hơn, bản thân người giáo viên luôn cố gắng tìm tòi những phương pháp dạy học phù hợp với nội dung kiến thức, với từng đối tượng học sinh, đặc biệt là những đối tượng học sinh trung bình, yếu, kém; đồng thời giáo dục tư tưởng, ý thức, thái độ và lòng ham muốn học tập môn Hóa của các em . 2. Cơ sở thực tiễn Khi làm các bài tập áp dụng các định luật bảo toàn, học sinh phải nắm vững được những kiến thức cơ bản về các định luật bảo toàn như nội dung định luật, phạm vi áp dụng định luật Tuy nhiên trong quá trình giảng dạy và trao đổi với các đồng nghiệp khác trong tổ chuyên môn khi dạy phần kiến thức này, tôi nhận thấy rất nhiều các em học sinh ở những lớp khác nhau nhưng mắc những sai lầm giống nhau khi giải các bài tập đó thậm chí có cả học sinh khá, giỏi. Những hạn chế mà học sinh thường gặp phải như: chưa biết cách áp dụng từng định luật bảo toàn vào các dạng bài tập nào; Giải sai hoặc tính toán nhầm do kỹ năng giải bài tập chưa thuần thục. Nguyên nhân là do: Phần lớn học sinh của trường thuộc 7 xã miền núi, kinh tế gia đình còn nhiều khó khăn, ngoài giờ lên lớp thì các em phải làm việc phụ giúp gia đình nên các em không có thời gian để học bài ở nhà và cũng không có tiền để mua các loại sách tham khảo hay vào mạng internet để xem về các phương pháp giải toán hóa học nhanh . Lời giải các bài tập trong sách giáo khoa và sách bài tập cũng không áp dụng các phương pháp giải nhanh mà chỉ là các phương pháp thông thường, cơ bản. Thời lượng các tiết học trên lớp về mảng kiến thức này còn hạn chế. Những dạng bài tập nâng cao hơn thì hầu như rất ít khi được đưa vào do hạn chế về thời lượng số tiết dạy theo phân phối chương trình và đối tượng học sinh khá, giỏi chiếm tỷ lệ rất ít. Không đồng đều về nhận thức của học sinh trong một lớp nên gần như các tiết dạy chính trên lớp tập trung vào những kiến thức cơ bản cho các em, còn phần mở rộng hay những bài tập dạng nâng cao hơn thì để vào các giờ bài tập, ôn tập hay các giờ tự chọn theo chủ đề. Chính vì vậy mà các em chưa có điều kiện tìm hiểu rõ cũng như chưa nắm vững các định luật hoá học để đưa ra phương pháp giải nhanh các bài tập hóa học. II. THỰC TRẠNG TRƯỚC KHI THỰC HIỆN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Đầu năm học 2011 - 2012, khi giảng dạy môn Hóa khối 12 ở 3 lớp 12A7, 12A8, 12A9 của trường THPT Ba Vì, tôi nhận thấy rất nhiều học sinh còn lúng túng và bị động với việc giải bài tập. Các lỗi giống nhau này không chỉ xảy ra ở những lớp tôi giảng dạy mà còn ở các lớp khác của đồng nghiệp. Những kiến thức cơ bản về các định luật bảo toàn học sinh đã được học từ bậc THCS nên trong quá trình làm bài tập áp dụng phần kiến thức này, tôi cho các em làm theo cách của các em và từ đó tôi hướng dẫn các em tư duy để giải nhanh được bài tập hóa học . Một khó khăn nữa mà tôi cũng gặp trong quá trình giảng dạy trên đó là việc dạy học phân hóa theo từng đối tượng học sinh. Những lớp tôi nhận nhiệm vụ giảng dạy, học sinh trung bình, yếu, kém là đa số, còn học sinh khá, giỏi là rất ít nên các giáo án, các ví dụ và bài tập của tôi hướng chủ yếu vào học sinh trung bình và yếu, kém còn những bài tập nâng cao áp dụng các định luật bảo toàn chỉ mang tính giới thiệu. III. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Với mong muốn giúp học sinh nhận ra và khắc phục những hạn chế trong quá trình giải bài tập áp dụng các định luật bảo toàn, giúp các em nắm vững, nắm chắc những kiến thức cơ bản về mảng kiến thức này, có thể tự mình giải quyết những bài tập cơ bản trong sách giáo khoa và sách bài tập hoặc những bài tập nâng cao hơn một chút để các em thấy say mê hơn với môn Hóa, tôi mạnh dạn viết sáng kiến kinh nghiệm : “Rèn luyện tư duy học sinh để giải nhanh các bài tập áp dụng định luật bảo toàn” áp dụng cho các khối lớp ở trường THPT Ba Vì trong năm học 2011 - 2012 với đối tượng chủ yếu là học sinh trung bình, yếu, hy vọng phần nào giúp các em làm được những bài tập hóa học một cách nhanh nhất và chính xác nhất để đáp ứng cho quá trình kiểm tra và thi theo hình thức trắc nghiệm. IV. NHIỆM VỤ - YÊU CẦU NGHIÊN CỨU 1. Nhiệm vụ Giúp học sinh rèn luyện tư duy thông qua hệ thống các bài tập áp dụng định luật bảo toàn. 2. Yêu cầu - Giúp học sinh nhận dạng bài toán - Giúp học sinh nắm được cách giải nhanh bài tập hóa học liên quan một cách thành thạo. V. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU Học sinh khối 12 của trường THPT Ba Vì trong năm học 2011-2012. Cụ thể là các lớp 12A7, 12A8, 12A9. VI. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU - Đọc kỹ tài liệu sách giáo khoa, sách bài tập Hóa học 10, 11, 12; sách giáo viên và một số tài liệu tham khảo khác. - Dạy học và trắc nghiệm trên 3 đối tượng: Giỏi - Khá - Trung bình, yếu, kém trong đó nội dung dạy học, phương pháp thực hiện và kết quả thu được đánh giá chủ yếu đối với đối tượng học sinh trung bình, yếu, kém. - Đưa ra bàn luận trước tổ, nhóm chuyên môn để tham khảo ý kiến và cùng thực hiện. - Tham khảo ý kiến các trường bạn, ý kiến đóng góp của các thầy cô dạy lâu năm đã có nhiều kinh nghiệm. - Dự giờ, kiểm tra, đánh giá chất lượng của học sinh. - Dạy thực nghiệm trên 3 lớp 12 của trường là: 12A7, 12A8, 12A9. VII. PHẠM VI NGHIÊN CỨU VÀ THỜI GIAN NGHIÊN CỨU - Nghiên cứu về các định luật bảo toàn và các bài tập áp dụng - Thời gian làm trắc nghiệm trong một năm - Kinh nghiệm của bản thân trong quá trình giảng dạy. VIII. ĐIỀU TRA CƠ BẢN BAN ĐẦU Kết quả khảo sát đầu năm học 2011-2012: Học lực Giỏi Khá Trung bình Yếu - Kém Lớp (Sĩ số) Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ 12A7(40) 1 2,5% 8 20% 21 52,5% 10 25% 12A8(41) 1 2,4 % 9 22% 24 58,5% 7 17,1% 12A9(42) 1 2,4 % 9 21,4% 22 52,4% 10 23,8% Đây là 3 lớp của khối 12 mà đối tượng học sinh chủ yếu là trung bình, yếu, học sinh khá, giỏi rất ít. Vì thế yêu cầu kiến thức đưa ra cũng phải phù hợp với nhận thức và khả năng của các em, không gây sự chán nản, học chống đối để các em có thể nắm chắc kiến thức cơ bản, giải thành thạo một số dạng bài tập áp dụng định luật bảo toàn và ngày càng say mê, hứng thú với bộ môn Hóa hơn. B - GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. KIẾN THỨC CẦN SỬ DỤNG Để giải tốt các dạng bài tập dùng các định luật bảo toàn đòi hỏi học sinh phải nắm vững các điểm lí thuyết quan trọng của các định luật bảo toàn, đồng thời ứng dụng linh hoạt những lí thuyết đó vào từng dạng bài toán cụ thể. * Các định luật bảo toàn: 1. Định luật bảo toàn nguyên tố: a. Nội dung Trong một quá trình phản ứng, tổng số mol nguyên tố tham gia bằng tổng số mol nguyên tố tạo thành hoặc tổng khối lượng nguyên tố tham gia bằng tổng khối lượng nguyên tố tạo thành. b. Các bài toán thường dùng định luật bảo toàn nguyên tố: - Bài toán đốt cháy hợp chất hữu cơ với điều kiện biết rõ có thể tính số mol bên tham gia phản ứng và bên sản phẩm. - Bài toán nhiệt nhôm - Bài toán CO2 tác dụng với dụng dịch kiềm - Bài toán cho một số liệu liên quan đến các nguyên tố. 2. Định luật bảo toàn khối lượng: a. Nội dung Trong một phản ứng hóa học, tổng khối lượng các chất tham gia phản ứng bằng tổng khối lượng các chất tạo thành sau phản ứng. Trong đó chúng ta cần vận dụng các hệ quả: Hệ quả 1: Gọi mT là tổng khối lượng các chất trước phản ứng, mS là tổng khối lượng các chất sau phản ứng. Dù phản ứng xảy ra với hiệu suất bất kì ta đều có: mT = mS Hệ quả 2: Khi cation kim loại kết hợp với anion phi kim để tạo ra các hợp chất ta luôn có: Khối lượng chất = khối lượng cation + khối lượng anion. Khối lượng của cation hoặc anion ta coi như bằng khối lượng của nguyên tử cấu tạo thành. b. Các bài toán thường dùng định luật bảo toàn khối lượng: - Bài toán hỏi khối lượng - Bài toán chỉ c
File đính kèm:
skkn_ren_luyen_tu_duy_hoc_sinh_de_giai_nhanh_cac_bai_tap_ap.pdf