Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng phiếu học tập trong một số bài Hóa học 10

Định hướng đổi mới phương pháp dạy và học đã được xác định trong nghị quyết

Ban Chấp Hành TW 4 khóa VII tháng 1 năm 1993, nghị quyết Ban Chấp Hành TW

khóa 8 tháng 12 năm 1996, điều 28 Luật giáo dục 2005 đã ghi “Phương pháp giáo dục

phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù

hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả

năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác

động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh.”. Hơn nữa, định

hướng đổi mới phương pháp dạy học nói chung và trong dạy học hóa học nói riêng đòi

hỏi người GV không chỉ truyền thụ tri thức, mà còn phải giúp HS hình thành được thói

quen, khả năng phương pháp tự học. Vì vậy, trong quá trình dạy học GV tổ chức cho

học sinh khám phá kiến thức mới, tìm tòi, phát hiện, phân tích và vận dụng những kiến

thức đã học vào thực tiễn.

Thiết nghĩ, việc sử dụng phiếu học tập trong dạy học Hóa học nói chung và dạy

học Hóa học lớp 10 nói riêng là biện pháp kết hợp giữa phương tiện dạy học và

phương pháp dạy học góp phần phát huy tính tích cực của học sinh rất hiệu quả; giúp

học sinh có điều kiện rèn luyện các năng lực phân tích, tổng hợp phán đoán nhanh.

Mặt khác, phương tiện dạy học này giúp các em từng bước làm quen với kỹ năng làm

việc phối hợp theo nhóm, rèn luyện cho học sinh kỹ năng trình bày một vấn đề khoa

học trước tập thể rõ ràng, khúc chiết một cách mạnh dạn, tự tin Đây là những kỹ

năng rất quan trọng cần có ở mỗi học sinh để đáp ứng yêu cầu của xã hội trong thời kì

hội nhập.

pdf 25 trang Huy Quân 01/04/2025 320
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng phiếu học tập trong một số bài Hóa học 10", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng phiếu học tập trong một số bài Hóa học 10

Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng phiếu học tập trong một số bài Hóa học 10
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI 
Đơn vị............................................. 
 Mã số: ................................ 
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 
 Người thực hiện: ........................ 
 Lĩnh vực nghiên cứu: 
 Quản lý giáo dục  
 Phương pháp dạy học bộ môn: ...............................  
 Phương pháp giáo dục  
 Lĩnh vực khác: .........................................................  
 Có đính kèm: 
  Mô hình  Phần mềm  Phim ảnh  Hiện vật khác 
SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC 
I. THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN 
SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC 
II. THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN 
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI 
TRƯỜNG THPT VÕ TRƯỜNG TOẢN 
 Mã số:  
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 
SỬ DỤNG PHIẾU HỌC TẬP TRONG MỘT SỐ 
BÀI HÓA HỌC 10 
 Người thực hiện: Nguyễn Thị Trang 
 Lĩnh vực nghiên cứu: 
 Quản lý giáo dục  
 Phương pháp dạy học bộ môn: Hóa học  
 Phương pháp giáo dục  
 Lĩnh vực khác:  
 Có đính kèm: 
  Mô hình  Phần mềm  Phim ảnh  Hiện vật khác 
Năm học: 2012-2013 
SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC 
I. THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN 
1. Họ và tên: Nguyễn Thị Trang 
2. Ngày tháng năm sinh: 06-7-1986 
3. Nam, nữ: nữ 
4. Địa chỉ: Ấp Bể Bạc, Xuân Đông, Cẩm Mỹ, Đồng Nai 
5. Điện thoại: (CQ)/ (NR); ĐTDĐ: 01642666462 
6. Fax: E-mail: nguyentrangvtt@gmail.com.vn 
7. Chức vụ: Giáo viên 
8. Đơn vị công tác: Trường THPT Võ Trường Toản. 
II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO 
- Học vị (hoặc trình độ chuyên môn, nghiệp vụ) cao nhất: cử nhân 
- Năm nhận bằng: 2009 
- Chuyên ngành đào tạo: Sư phạm Hóa học 
III. KINH NGHIỆM KHOA HỌC 
- Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: giảng dạy môn Hóa học. 
- Số năm có kinh nghiệm: 4 năm 
- Các sáng kiến kinh nghiệm đã có trong 5 năm gần đây: không có. 
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 
 Định hướng đổi mới phương pháp dạy và học đã được xác định trong nghị quyết 
Ban Chấp Hành TW 4 khóa VII tháng 1 năm 1993, nghị quyết Ban Chấp Hành TW 
khóa 8 tháng 12 năm 1996, điều 28 Luật giáo dục 2005 đã ghi “Phương pháp giáo dục 
phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù 
hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả 
năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác 
động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh.”. Hơn nữa, định 
hướng đổi mới phương pháp dạy học nói chung và trong dạy học hóa học nói riêng đòi 
hỏi người GV không chỉ truyền thụ tri thức, mà còn phải giúp HS hình thành được thói 
quen, khả năng phương pháp tự học. Vì vậy, trong quá trình dạy học GV tổ chức cho 
học sinh khám phá kiến thức mới, tìm tòi, phát hiện, phân tích và vận dụng những kiến 
thức đã học vào thực tiễn. 
Thiết nghĩ, việc sử dụng phiếu học tập trong dạy học Hóa học nói chung và dạy 
học Hóa học lớp 10 nói riêng là biện pháp kết hợp giữa phương tiện dạy học và 
phương pháp dạy học góp phần phát huy tính tích cực của học sinh rất hiệu quả; giúp 
học sinh có điều kiện rèn luyện các năng lực phân tích, tổng hợp phán đoán nhanh. 
Mặt khác, phương tiện dạy học này giúp các em từng bước làm quen với kỹ năng làm 
việc phối hợp theo nhóm, rèn luyện cho học sinh kỹ năng trình bày một vấn đề khoa 
học trước tập thể rõ ràng, khúc chiết một cách mạnh dạn, tự tinĐây là những kỹ 
năng rất quan trọng cần có ở mỗi học sinh để đáp ứng yêu cầu của xã hội trong thời kì 
hội nhập. 
Qua thực tế dạy học Hóa học ở trường THPT hiện nay cho thấy: nhiều GV còn 
rất lúng túng trong việc lựa chọn sử dụng các phương pháp, phương tiện hỗ trợ cho 
giảng dạy trong từng bài học. Đặc biệt là vấn đề tổ chức cho HS tích cực, chủ động 
tham gia trao đổi, thảo luận trong quá trình giảng dạy của nhiều giáo viên chưa thực 
sự hiệu quả chủ yếu còn mang tính hình thức. Việc sử dụng các phương tiện dạy học 
nói chung, phiếu học tập nói riêng để giúp học sinh định hướng, khai thác và trình 
bày kiến thức trong quá trình giáo viên tổ chức cho các em thảo luận chưa được quan 
tâm đúng mức. Những điều này dẫn đến hiệu quả giảng dạy chưa cao, chưa đáp ứng 
được yêu cầu mục tiêu của vấn đề đổi mới phương pháp dạy học hiện nay. 
Trong các bài dạy Hóa học lớp 10, nếu GV sử dụng linh hoạt phiếu học tập và 
kết hợp tốt với phương tiện dạy học khác như máy chiếu vật thể thì sẽ tiết kiệm khá 
nhiều thời gian cho phần củng cố bằng các bài tập trên lớp. Bởi, thay vì ghi lên bảng 
hoặc đọc cho HS chép bài tập GV đã soạn sẵn trên phiếu học tập. 
Xuất phát từ những lí do trên tôi mạnh dạn chọn đề tài “Sử dụng phiếu học tập 
trong một số bài Hóa học 10” để nghiên cứu với mục đích góp phần nâng cao hiệu 
quả dạy học môn Hóa học nói chung và dạy học Hóa học lớp 10 nói riêng. Trong quá 
trình nghiên cứu và trình bày không tránh được những thiếu sót rất mong được sự giúp 
đỡ, đóng góp ý kiến của quý thầy, cô. 
II. THỰC TRẠNG TRƯỚC KHI THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP CỦA ĐỀ 
TÀI 
1. Thuận lợi 
Phiếu học tập là một trong những phương tiện đơn giản, GV tự thiết kế sử dụng 
thuận tiện và phổ biến trong nhiều hình thức tổ chức dạy học và nhiều khâu của quá 
trình dạy học. 
Mặt khác, trong quá trình giảng dạy Hóa học 10 tại trường THPT Võ Trường 
Toản, tôi nhận thấy đa số HS chăm ngoan, hiếu học, biết lắng nghe và hợp tác với thầy 
cô để việc học tập đạt kết quả cao nhất. 
Hơn nữa, bản thân tôi là một giáo viên đã được trang bị đầy đủ về chuyên môn, 
nghiệp vụ giảng dạy môn Hóa học ở trường THPT luôn biết học hỏi, tìm tòi những 
phương tiện dạy học phù hợp với bộ môn nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng 
tạo của học sinh. 
Cuối cùng, mặt thuận lợi không thể không nhắc đến là nhà trường luôn tạo điều 
kiện, hỗ trợ, khuyến khích giáo viên mạnh dạn và chủ động sử dụng các phương tiện 
dạy học mang lại hiệu quả cao, đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp dạy và học hiện 
nay. 
2. Khó khăn 
Trong quá trình đưa sáng kiến vào thực tế dạy học, tôi nhận thấy có một số khó 
khăn nhất định sau: 
Thứ nhất, việc thiết kế phiếu học tập phù hợp với bài học đòi hỏi mất nhiều thời 
gian, công sức. Do đó thực tế dạy học nói chung và dạy học Hóa học nói riêng cho 
thấy nhiều giáo viên ít hoặc rất ít sử dụng phiếu học tập và nếu có thì chỉ mang tính 
hình thức. 
 Thứ hai, nhiều bài học nội dung quá dài, mà thời lượng dạy ít nên nhiều khi 
giáo viên phải dạy lướt qua, ít có thời gian cho học sinh thảo luận luyện tập. Nói cách 
khác, giáo viên không có điều kiện để sử dụng phiếu học tập. 
 Thứ ba, ngôi trường, nơi tôi công tác, thuộc vùng sâu, vùng xa nên đa số học 
sinh có lực học trung bình và yếu. Trong số đó học sinh lớp 10 phần lớn đến từ các xã 
khác nhau, các em còn lạ lẫm chưa quen với môi trường học tập mới gây khó khăn cho 
việc thảo luận nhóm. 
3. Các số liệu thống kê 
 Năm học 2010-2011, tôi đã tiến hành phát phiếu thăm dò (phụ lục) đối với học 
sinh lớp 10 trường trung học phổ thông Võ Trường Toản. Kết quả là: 
GV sử dụng phiếu học tập trong các giờ học hóa học như sau: 4,4% thường 
xuyên; 40,3% ít; 44,4% rất ít; 11,2% giáo viên không bao giờ sử dụng phiếu học tập. 
Thái độ HS khi sử dụng phiếu học tập: 8,9% rất thích; 60,0% thích; 15,6% có thái 
độ bình thường; 15,5% không thích sử dụng phiếu học tập. 
Từ những số liệu thống kê trên, tôi nhận thấy đa số học sinh hứng thú với việc sử 
dụng phiếu học tập để phát huy tính tích cực, sáng tạo của bản thân. Và cũng phần nào 
cho thấy giáo viên sử dụng phiếu học tập trong dạy học hóa học chưa nhiều. Vì vậy, 
tôi mạnh dạn sử dụng phiếu học tập trong một số bài hóa học 10 và trình bày để quý 
thầy cô tham khảo tùy vào đối tượng học sinh để vận dụng một cách hiệu quả. 
III. NỘI DUNG ĐỀ TÀI 
1. Cơ sở lý luận 
 Từ xa xưa, người Phương Đông đã có câu: “Tôi nghe thì tôi quên, tôi nhìn thì 
tôi nhớ, tôi làm thì tôi hiểu”. Câu nói đó cũng gần gũi với tinh thần của việc đổi mới 
phương pháp dạy học hiện nay. “Tôi nghe”có nghĩa là HS chỉ lắng nghe giáo viên 
diễn giảng, “tôi nhìn” nghĩa là GV sử dụng các phương tiện trực quan sinh động để 
HS quan sát và nhận thức được kiến thức, “tôi làm” nghĩa là GV viên sử dụng các 
phương tiện dạy học tạo điều kiện cho HS chủ động, tích cực thực hành những kiến 
thức đã được học. Vì vậy, khi tự mình vận dụng thực hành những kiến thức đã được 
học thì HS sẽ hiểu rõ những kiến thức đó và ứng dụng vào thực tiễn. 
 Theo trang điện tử vietbao.vn, những kết quả nghiên cứu khoa học hiện đại cũng 
đã cho thấy, HS chỉ có thể nhớ được 5% nội dung kiến thức thông qua đọc tài liệu. 
Nếu ngồi thụ động nghe thầy giảng thì nhớ được 15% nội dung kiến thức. Nếu quan 
sát có thể nhớ 20%. Kết hợp nghe và nhìn thì nhớ được 25%. Thông qua thảo luận với 
nhau, HS có thể nhớ được 55%. Nhưng nếu HS được trực tiếp tham gia vào các hoạt 
động để qua đó tiếp thu kiến thức thì có khả năng nhớ tới 75%. Còn nếu giảng lại cho 
người khác thì có thể nhớ tới được 90%. Điều này cho thấy tác dụng tích cực của việc 
dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS. 
 Cùng với công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì việc đào tạo ra 
những con người chủ động, tích cực, sáng tạo, tự học hỏi đáp ứng được nhu cầu càng 
cao của xã hội là rất cần thiết. 
 Từ những cơ sở lí luận trên tôi đã nghiêm túc nghiên cứu và thực hiện một cách 
linh hoạt và hiệu quả việc sử dụng phiếu học tập trong một số bài Hóa học 10. 
2. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài 
2.1. Biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài 
- Nghiên cứu tình hình thực tế về việc sử dụng phiếu học tập của các giáo viên 
Hóa học trường trung học phổ thông Võ Trường Toản. 
- Phương pháp thu thập xử lý thông tin liên quan đến đề tài nghiên cứu. 
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm: năm học 2011-2012, tôi đã chọn 2 lớp 
10B9 và 10B10 mặt bằng nhận thức tương đương nhau để kiểm nghiệm hiệu quả của đề 
tài. Tiến hành giảng dạy mội số tiết dạy có sử dụng phiếu học tập ở lớp 10B10. Đối 
chứng với lớp 10B9 không sử dụng phiếu học tập. 
2.2. Nội dung 
Tiết 3: Bài 1 THÀNH PHẦN NGUYÊN TỬ 
I/ Mục tiêu 
1/ Kiến thức 
Biết đượ

File đính kèm:

  • pdfsang_kien_kinh_nghiem_su_dung_phieu_hoc_tap_trong_mot_so_bai.pdf