Báo cáo biện pháp Phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học Lịch sử 10
Giáo dục và đào tạo có vị trí quan trọng trong chiến lược đào tạo nguồn nhân lực, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất nước ta trong giai đoạn Công nghiệp hóa – hiện đại hóa hiện nay. Trong quá trình hội nhập, môn lịch sử, đặc biệt là lịch sử dân tộc rất cần được coi trọng để giúp thế hệ trẻ hình thành nhân cách, bản lĩnh con người để giữ gìn bản sắc dân tộc. Nhưng thực trạng việc dạy và học lịch sử ở trường phổ thông hiện nay đang ở mức báo động, kiến thức lịch sử của học sinh quá kém và những năm gần đây khi kết quả thi tốt nghiệp THPT môn lịch sử quá thấp đã đặt ra cho chúng ta một vấn đề: Vì sao lại như vậy ?
Lịch sử là môn học tái hiện cho học sinh biết về quá khứ dân tộc qua các thời kì để các thế hệ kế tiếp nối theo, vận dụng những bài học kin h nghiệm của người xưa vào công cuộc đấu tranh, xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Môn lịch sử còn giáo dục những phẩm chất tốt đẹp của dân tộc, giáo dục lòng yêu nước, biết ơn những người đã ngã xuống để chúng ta có được ngày hôm nay. Nhưng dường như học sinh lại không thích học môn lịch sử vì cho rằng đó chỉ là môn phụ, không quan trọng, nội dung kiến thức quá dài, khó nhớ, nhiều sự kiện. Và ngay cả ngoài xã hội cũng không xem trọng đối với môn học này.
Vậy thì phải làm sao để thu hút được học sinh có hứng thú và chuyên tâm hơn trong môn học lịch sử? Vậy làm thế nào để phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử? Dạy học lịch sử như thế nào đề đạt được hiệu quả tốt nhất là điều mong muốn của thầy cô giáo chúng ta. Muốn vậy thì phải đổi phương pháp, biện pháp dạy và học nhằm tạo cho học sinh hứng thú, say sưa với môn học, chủ động sáng tạo để loại bỏ dần cách học thụ động trước đây.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Báo cáo biện pháp Phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học Lịch sử 10
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM “PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ 10” MÔN LỊCH SỬ- KHỐI 10 - Năm học: 2018-2019 I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Giáo dục và đào tạo có vị trí quan trọng trong chiến lược đào tạo nguồn nhân lực, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất nước ta trong giai đoạn Công nghiệp hóa – hiện đại hóa hiện nay. Trong quá trình hội nhập, môn lịch sử, đặc biệt là lịch sử dân tộc rất cần được coi trọng để giúp thế hệ trẻ hình thành nhân cách, bản lĩnh con người để giữ gìn bản sắc dân tộc. Nhưng thực trạng việc dạy và học lịch sử ở trường phổ thông hiện nay đang ở mức báo động, kiến thức lịch sử của học sinh quá kém và những năm gần đây khi kết quả thi tốt nghiệp THPT môn lịch sử quá thấp đã đặt ra cho chúng ta một vấn đề: Vì sao lại như vậy ? Lịch sử là môn học tái hiện cho học sinh biết về quá khứ dân tộc qua các thời kì để các thế hệ kế tiếp nối theo, vận dụng những bài học kin h nghiệm của người xưa vào công cuộc đấu tranh, xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Môn lịch sử còn giáo dục những phẩm chất tốt đẹp của dân tộc, giáo dục lòng yêu nước, biết ơn những người đã ngã xuống để chúng ta có được ngày hôm nay. Nhưng dường như học sinh lại không thích học môn lịch sử vì cho rằng đó chỉ là môn phụ, không quan trọng, nội dung kiến thức quá dài, khó nhớ, nhiều sự kiện. Và ngay cả ngoài xã hội cũng không xem trọng đối với môn học này. Vậy thì phải làm sao để thu hút được học sinh có hứng thú và chuyên tâm hơn trong môn học lịch sử? Vậy làm thế nào để phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử? Dạy học lịch sử như thế nào đề đạt được hiệu quả tốt nhất là điều mong muốn của thầy cô giáo chúng ta. Muốn vậy thì phải đổi phương pháp, biện pháp dạy và học nhằm tạo cho học sinh hứng thú, say sưa với môn học, chủ động sáng tạo để loại bỏ dần cách học thụ động trước đây. Để góp phần vào việc đổi mới phương pháp dạy học nói chung, dạy học lịch sử nói riêng, bản thân tôi với một số năm giảng dạy bộ môn lịch sử, kinh nghiệm chưa nhiều nhưng cũng xin mạnh dạn trình bày một số vấn đề: “PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ 10” Với việc nghiên cứu đề tài này, tôi mong muốn sẽ góp phần vào giúp giáo viên tiến hành một giờ dạy học hiệu quả tốt hơn, học sinh tích cực chủ động trong việc tiếp thu lĩnh hội kiến thức của bài học. Đây cũng là lí do tôi chọn đề tài này. II. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN A/ CƠ SỞ LÍ LUẬN: Sự đổi mới của mục tiêu giáo dục và nội dung giáo dục đặt ra yêu cầu phải đổi mới phương pháp dạy học. Nghị quyết TW 2, khoá VIII đã xác định mục tiêu của việc đổi mới phương pháp giáo dục đào tạo là nhằm: “khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện vào quá trình dạy và học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu của học sinh, nhất là sinh viên đại học.” Trong luật giáo dục của nước CHXHCN Việt Nam cũng đã khẳng định: “Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác chủ động của học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng lớp, từng môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện, vận dụng kiến thức vào thực tiễn tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú trong học tập cho học sinh.” Vấn đề đổi mới phương pháp dạy học và nâng cao chất lượng dạy học các môn nói chung, phương pháp dạy học lịch sử nói riêng đã được đặt ra và thực hiện một cách cấp thiết cùng với xu hướng đổi mới giáo dục chung của thế giới. Luật giáo dục sửa đổi đã chỉ rõ: “phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đăc điểm của từng lớp học, từng môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui hứng thú học tập cho học sinh”. Tồn tại ở trường phổ thông với tính cách là một khoa học, bộ môn lịch sử có tác dụng nhất định đến việc hình thành thế giới quan, tình cảm đạo đức, phát triển năng lực nhận thức và hành động cho học sinh. Tuy nhiên, hiện nay chất lượng giảng dạy và học tập môn Lịch sử chưa thực sự làm cho xã hội an tâm. Vì thế việc đổi mới một cách toàn diện về nội dung lẫn phương pháp dạy học Lịch sử là vô cùng cần thiết. Quá trình dạy học lịch sử ở trường phổ thông là một quá trình dạy học mang tính đặc thù: Dạy học lịch sử là tái hiện quá khứ và mục tiêu của bộ môn lịch sử là việc giúp học sinh biết quá khứ, hiểu quá khứ. Đồng thời rút ra những bài học vận dụng vào cuộc sống hiện tại và tương lai. Hay nói cách khác đó là quá trình giúp học sinh nắm kiến thức và hình thành kĩ năng, kĩ xảo vận dụng kiến thức, kĩ năng đó vào giải quyết những vấn đề cuộc sống. Vấn đề khó khăn nhất là việc tái hiện những sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử phải chính xác sinh động, tránh hiện tượng hiện đại hoá lịch sử. Nhưng để làm đựơc điều này là vấn đề không đơn giản. Hiện nay giáo viên chủ yếu dựa vào thủ pháp trình bày miệng, tường thuật tích cực hơn là có sự kết hợp với một số phương tiện như tranh ảnh, bản đồ hoặc đã có nhiều tiết công nghệ thông tin nhưng dường như giáo viên chưa đem lại hiệu quả cao. Theo quan niệm cổ truyền, quá trình dạy học là tập hợp những hành động liên tiếp, thâm nhập vào nhau của giáo viên và của học sinh dưới sự hướng dẫn của giáo viên, nhằm làm cho học sinh tự giác nắm vững hệ thống những cơ sở khoa học và trong quá trình đó, phát triển những năng lực nhận thức và năng lực hành động, hình thành thế giới quan và nhân sinh quan. Như vậy quá trình dạy học được hiểu là một tập hợp những hoạt động của thầy và trò, dưới sự hướng dẫn chủ đạo của giáo viên nhằm giúp trò phát huy được nhân cách và nhờ đó mà đạt tới mục đích dạy học. Quan điểm hiện đại về dạy học hiện nay cho rằng: “Dạy học bằng hoạt động thông qua hoạt động của học sinh để học sinh tự lực, tích cực chiếm lĩnh kiến thức”. Điều đó có nghĩa là: dạy học lịch sử không chỉ truyền thụ hệ thống kiến thức cơ bản mà điều quan trọng là xây dựng cho học sinh một tiềm lực, một bản lĩnh thể hiện ở phương pháp suy nghĩ và làm việc, trong cách tiếp cận, giải quyết các vấn đề đồng thời giúp học sinh có khả năng phát triển vốn hiểu biết đã có, biết được năng lực sở trường của mình để lựa chọn nghề nghiệp, thích ứng với sự phát triển xã hội. Việc dạy học theo quan điểm trên có tác dụng thiết thực để học sinh chủ động xây dựng, chiếm lĩnh kiến thức, vận dụng vào thực hành, kiến thức của họ trở nên vững chắc và sinh động hơn. Từ đó, việc phát hiện và bồi dưỡng đội ngũ nhân tài cho đất nước trở nên thuận lợi hơn. Vậy tại sao ta không kết hợp giữa phương pháp truyền thống với hiện đại để vừa không làm mất đi vai trò của người thầy, lại vừa giúp học sinh chủ động tiếp cận kiến thức. B/ THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ: Vấn đề thực tế ở trường THCS-THPT Trưng Vương còn tồn đọng nhiều năm ở trường là giáo viên chú trọng và dành nhiều thời gian cho việc đầu tư giảng dạy mà ít tìm tòi sáng tạo trong đổi mới phương pháp dạy học. Trong công tác này giáo viên phần lớn lại chú trọng đến việc truyền đạt kiến thức hơn là tập cho học sinh tự học, tự rèn, tự lĩnh hội kiến thức một cách tích cực chủ động có hệ thống để có khả năng nghiên cứu chuyên sâu để hiểu và vận dụng một vấn đề lịch sử vào bài làm có hiệu quả tốt nhất, kích thích sự say mê nghiên cứu tìm tòi của các em. * Chất lượng đầu năm Lớp 101,8,9,10(148 học sinh) TS Giỏi Khá TB Yếu Kém 148 SL TL SL TL SL TL SL TL SL TL 80 54,1 68 45.9 00 00 00 00 00 00 C/ TỔ CHỨC THỰC HIỆN 1. Thay đổi bố cục tiết học môn Lịch sử. (Nhằm phù hợp với việc tổ chức giải pháp) Để tổ chức được tiết học với sự tham gia chủ động của học sinh thì bản thân tôi thay đổi lại bố cục của tiết dạy theo trình tự sau: 1.1. Kiểm tra kiến thức trọng tâm. (5 phút) - Phần này giúp học sinh nhớ kiến thức cơ bản của bài học đã nghiên cứu, hệ thống một cách căn bản nhất, khái quát nhất kiến thức thông qua sơ đồ tư duy đã được cô động trong tiết học trước đó. 1.2. Xây dựng bài học mới.(30 phút) Các nhóm học sinh báo cáo các phần tự nghiên cứu (chuẩn bị trước), thảo luận, phản biện xây dựng bài học dưới sự giám sát và cố vấn của giáo viên bộ môn. 1.3. Giáo viên giao nhiệm vụ nghiên cứu bài học ở tiết tiếp theo. (10 phút) Giáo viên nêu chủ đề, nội dung bài học cần nghiên cứu trong tiết học tiếp theo, trọng tâm việc nghiên cứu tìm hiểu và giao nhiệm vụ cụ thể cho các nhóm. Đặt các câu hỏi mang tính gợi ý để học sinh chuẩn bị chi tiết, có chất lượng, tập trung và xoáy sâu vào trọng tâm cần nghiên cứu, bám sát chuẩn kiến thức kỹ năng. 2. Tổ chức thực hiện 2.1. Bài 3: Các quốc gia cổ đại Phương Đông * Giao đề tài cho học sinh nghiên cứu bài học. - Giáo viên hướng dẫn học sinh nghiên cứu, chuẩn bị Bài 3: Các quốc gia cổ đại Phương Đông và lập sơ đồ tư duy trước khi đến lớp. Trong đó, hướng tới (Chuẩn kiến thức kỹ năng): + Những đặc điểm điều kiện tự nhiên các quốc gia cổ đại phương Đông và sự phát triển ban đầu của ngành kinh tế từ đó thấy được ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên và nền tảng kinh tế đến quá trình hình thành nhà nước , cơ cấu xã hội, thể chế chính trị + Những đặc điểm của quá trình hình thành xh có g/c và nhà nước + Thông qua việc tìm hiểu về cơ cấu bộ máy nhà nước và quyền lực của nhà vua + Thành tựu lớn về văn hóa của các quốc gia cổ đại phương đông - Học sinh đọc, nghiên cứu Bài 3: Các quốc gia cổ đại Phương Đông thông qua sách giáo khoa, ghi chép các yếu tố liên quan, chi tiết quan trọng của bài học, phân tích, đặt câu hỏi nghi vấn. Với hệ thống các câu hỏi gợi ý tìm hiểu được giáo viên gợi ý: Câu 1 Các quốc gia cổ đại Phương Đông nằm ở đâu? Có thuận lợi và khó khăn gì? Câu 2 Nền kinh tế chính của các quốc gia cổ đại phương Đông? Câu 3 Tại sao chỉ với công cụ chủ yếu bằng gỗ và đá, cư dân cổ đại Phương Đông đã sớm xây dựng nhà nước của mình? Câu 4 Các quốc gia cổ đại Phương Đông hình thành sớm nhất ở đâu ? Trong khoảng thời gian nào? So với phương Tây? Câu 5 Cơ sở và nguyên nhân hình thành các quốc gia cổ đại Phương Đông? Câu 6 Các tầng lớp trong xã hội cổ đại Phương Đôn ... ài học. + Một số nhóm còn nặng tính đọc báo, chưa đúng phong cách thuyết trình. + Một số nhóm còn sơ sài về mặt nội dung lẫn hình thức chuẩn bị. + Chưa tự tin trong phong cách diễn đạt, kỹ năng làm việc tập thể có phần còn hạn chế, thao tác chậm chạp như chưa được tập dượt và rèn luyện bao giờ. + Một số ít học sinh còn lại của nhóm thuyết trình còn thụ động trong công việc của nhóm, không tích cực tham gia, đóng góp ý kiến bổ sung, chỉ biết lắng nghe, ghi chép và chỉ khi có sự yêu cầu từ giáo viên thì mới tham gia. + Giáo viên yêu cầu các học sinh chưa tích cực trong việc nghiên cứu bài 19, làm nhóm trưởng cho lần nghiên cứu sau của bài 20: Xây dựng và phát triển văn hóa dân tộc trong các thế kỉ X-XV. * Lập sơ đồ tư duy. - Mỗi nhóm chuẩn bị một sơ đồ tư duy theo cách hiểu riêng để nắm bắt được bài học. - Giáo viên chọn sơ đồ tư duy đúng và thích hợp nhất, bổ sung hoặc có chỉnh sửa nội dung chuẩn mực nhất để yêu cầu học sinh học và tư duy theo sơ đồ đó. 2.3. Bài 31. Cách mạng tư sản Pháp cuối thế kỉ XVIII * Giao đề tài cho học sinh nghiên cứu bài học. - Giáo viên hướng dẫn học sinh nghiên cứu, chuẩn bị Bài 31. Cách mạng tư sản Pháp cuối thế kỉ XVIII và lập sơ đồ tư duy trước khi đến lớp. Trong đó, hướng tới: + Tình hình kinh tế và các mâu thuẫn giai cấp xã hội trước cách mạng. + Diễn biến chính qua các giai đoạn cách mạng Pháp: nền quân chủ lập hiến, nền cộng hòa, nền chuyên chính dân chủ cách mạng, chiến tranh cách mạng. - Hệ thống các câu hỏi gợi ý tìm hiểu được giáo viên gợi ý: Câu 1 Tình hình kinh tế xã hội Pháp trước cách mạng ? Câu 2 Những nhà tư tưởng tiến bộ Pháp có vai trò như thế nào trong việc chuẩn bị cách mạng? Câu 3 Nguyên nhân sâu xa và nguyên nhân trực tiếp của cách mạng tư sản Pháp? Câu 4 Lập niên biểu cách mạng tư sản Pháp qua các giai đoạn? Câu 5 Những việc làm của phái Lập hiến sau khi lên nắm quyền? Câu 6 Chính quyền Giacôbanh làm gì chống thù trong giặc ngoài? Câu 7 Tại sao nói thời kì chuyên chính Giacôbanh là đỉnh cao của cách mạng? Câu 8 Ý nghĩa lịch sử của cách mạng tư sản Pháp? * Đọc Sách Giáo khoa. Học sinh đọc sách giáo khoa, căn cứ trên những nhiệm vụ mà giáo viên đã đặt vấn đề, tìm hiểu từng nội dung một, từ các câu hỏi đơn giản dần dần đến các mức độ khó hơn, phức tạp hơn. Thảo luận trước cùng các bạn trong nhóm, tìm các đáp án đánh giá sát thực nhất của cả nhóm, một học sinh đại diện nhóm ghi chép làm căn cứ báo cáo. * Tìm tư liệu minh họa. - Các nhóm cử các thành viên tìm tư liệu minh họa, xây dựng cho nội dung bài học, nộp lại làm thông tin cho phần thuyết trình của nhóm tập dượt tại nhà cũng như tại lớp. - Sách giáo khoa SGK lớp Lịch sử 10 của Nhà xuất bản Giáo dục. - Tài liệu tham khảo. - Mạng Internet (các trang mạng tin cậy). * Đặt câu hỏi vì sao? Sau khi học sinh đã nắm bắt được nhiệm vụ cần giải quyết trong bài học, học sinh thảo luận và tự đưa ra hệ thống câu hỏi nghi vấn: Bối cảnh cách mạng tư sản Pháp bùng nổ? Sau sự kiện 14-7, tại sao đại tư sản tài chính Pháp (phái Lập hiến) lên nắm quyền? Vì sao sau khi phái Lập hiến nắm quyền quần chúng tiếp tục nổi dậy ? Hạn chế của cách mạng tư sản Pháp cuối thế kỉ XVIII ? * Tự tìm câu trả lời và chuẩn bị phương án thảo luận. Học sinh dựa vào những tư liệu đã chuẩn bị, cùng với trọng tâm nghiên cứu với hệ thống chuẩn kiến thức kỹ năng và câu hỏi gợi ý đã được giáo viên giao nhiệm vụ trước đó để thảo luận theo nhóm, xây dựng các đáp án cho các câu hỏi, trong nhóm phản biện lẫn nhau để đưa ra phương án tối ưu nhất của nhóm trước khi đưa ra phương án trả lời cuối cùng cho những nội dung tìm hiểu, những câu hỏi xây dựng bài. * Thuyết trình, phản biện, rút kinh nghiệm, ghi chép. - Hình thức thảo luận này được tổ chức tại lớp học (đây là phiên thảo luận thứ 2 sau khi đã thảo luận phần 1 trong nội bộ nhóm đã chuẩn bị trước tại nhà), giao lưu kiến thức, trao đổi giữa các nhóm với nhau, đại diện các nhóm lên báo cáo, thuyết trình, các học sinh trong nhóm bổ sung nếu thấy còn thiếu sót hoặc có phát hiện mới bổ sung. Các nhóm khác theo dõi, phản biện, thảo luận theo nhóm phản biện, tìm đáp án tiến tới xây dựng bài học, công việc này được thực hiện lặp đi lặp lại nhằm tìm ra đáp án quan trọng và chính xác nhất để hoàn thiện nội dung bài học. Trong đó giáo viên đóng vai trò đạo diễn, cố vấn về chuyên môn, dẫn dắt phiên thảo luận để không lạc nội dung, đi vào trọng tâm, hướng tới chuẩn kiến thức kỹ năng đã được xây dựng trong phần giao nhiệm vụ, tạo được tính tổ chức, kỹ luật trong các phiên thảo luận, gây hứng thú tham gia cho các em học sinh cũng như các nhóm tham gia, tránh các tình trạng xao nhãng mất tập trung hoặc các tình tiết khác gây ảnh hưởng đến chất lượng của phiên thảo luận nghiên cứu. - Giáo viên ghi nhận quá trình, diễn biến của các phiên thảo luận, ghi chép các vấn đề quan trọng để tiến tới góp ý chi tiết cuối mỗi phiên thảo luận của mỗi nhóm, có thể đặt thêm những câu hỏi gợi mở để phát triển thêm bài học tùy theo năng lực học tập, khả năng tiếp thu của mỗi lớp, chỉ ra những điểm đã thực hiện tốt cần phát huy, những phát hiện tiêu biểu mang tính đột phá cần được ghi nhận, đặc biệt là chỉ ra những nội dung chưa chính xác, kể cả mặt tìm kiếm tư liệu minh họa (có nhiều nhóm tìm những nguồn tư liệu không chính thống được xây dựng bởi các trang thông tin không đáng tin cậy) đúc rút kinh nghiệm và tiến tới kết luận nội dung bài học. - Giáo viên nhận xét về quá trình báo cáo của học sinh nhóm: + Đa số học sinh tích cực, nắm bắt được nội dung của bài học. + Một số nhóm còn nặng tính đọc báo, chưa đúng phong cách thuyết trình. + Một số nhóm còn sơ sài về mặt nội dung lẫn hình thức chuẩn bị. + Chưa tự tin trong phong cách diễn đạt, kỹ năng làm việc tập thể có phần còn hạn chế, thao tác chậm chạp như chưa được tập dượt và rèn luyện bao giờ. + Một số ít học sinh còn lại của nhóm thuyết trình còn thụ động trong công việc của nhóm, không tích cực tham gia, đóng góp ý kiến bổ sung, chỉ biết lắng nghe, ghi chép và chỉ khi có sự yêu cầu từ giáo viên thì mới tham gia. + Giáo viên yêu cầu các học sinh chưa tích cực trong việc nghiên cứu bài 19, làm nhóm trưởng cho lần nghiên cứu sau của bài 32: Cách mạng công nghiệp ở Châu Âu. * Lập sơ đồ tư duy. - Mỗi nhóm chuẩn bị một sơ đồ tư duy theo cách hiểu riêng để nắm bắt được bài học. - Giáo viên chọn sơ đồ tư duy đúng và thích hợp nhất, bổ sung hoặc có chỉnh sửa nội dung chuẩn mực nhất để yêu cầu học sinh học và tư duy theo sơ đồ đó. 1. 3. Kết luận. Thiết kế bài dạy theo tính “phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử 10” làm tăng tính hiệu quả học tập và hợp tác giữa các cá nhân, nhất là lúc giải quyết những vấn đề gay cấn, lúc xuất hiện thực sự nhu cầu phối hợp giữa các cá nhân để hoàn thành nhiệm vụ chung. Trong hoạt động hợp tác theo nhóm nhỏ, tính cách, năng lực mỗi thành viên được bộc lộ, uốn nắn, phát triển tình bạn, ý thức tổ chức, tinh thần tương trợ. Sự hợp tác trong học tập sẽ giúp học sinh quen dần với sự phân công hợp tác trong lao động xã hội và hình thành năng lực hợp tác rất cần thiết cho người công dân trong một thế giới phát triển với sự hợp tác rất cần thiết đa dạng đã gắn bó chặt chẽ với thực tiễn cuộc sống của học sinh. Trong quá trình vận dụng “phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử 10” vào bài giảng bộ môn lịch sử chúng ta không được tuyệt đối hoá một phương pháp giảng dạy nào, mà phải kết hợp cả phương pháp truyền thống với các phương pháp hiện đại gắn với nhiều hình thức tổ chức dạy học theo lớp, theo nhóm và cá nhân, học ở trong lớp, ngoài lớp, trong trường hay liên hệ thực tế địa phương có liên quan đến nội dung bài học. “Phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử 10” đã khắc phục được tình trạng học sinh chỉ tiếp thu kiến thức một cách thụ động trước sự hướng của giáo viên, tạo cho học sinh hoạt động nhiều hơn, thực hành nhiều hơn, thảo luận nhiều hơn để giải quyết những vấn đề đặt ra dựa trên kiến thức cũ, kinh nghiệm sống, qua sự dẫn dắt của giáo viên tạo cho học sinh “nhu cầu bức xúc” để tự giải đáp thắc mắc. Như vậy, “phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử 10” đã thực sự kích thích hoạt động tư duy của học sinh, hình thành ý thức ham muốn học tập, say mê nghiên cứu, có sự cố gắng trong việc nắm kiến thức, từ đó khắc sâu hơn nội dung bài học. Trên đây là ý kiến chủ quan của tôi cho nên không thể tránh những thiếu sót. Kính mong được các đồng nghiệp đóng góp ý kiến chân thành để tôi thực hiện tốt hơn, tôi xin chân thành cảm ơn. III. ĐÁNH GIÁ SÁNG KIẾN 1. Tính mới - Giáo viên là người chỉ đạo, tổ chức, hướng dẫn, trợ giúp học sinh nắm được kiến thức của bài học. - Học sinh tự học, tự rèn, tự lĩnh hội kiến thức một cách tích cực chủ động. 2. Tính hiệu quả - Học sinh biết cách tự học, tìm tòi kiến thức, rèn luyện kĩ năng, phát hiện và giải quyết vấn đề, tư duy, sáng tạo, học tập tích cực. - Vận dụng tốt kiến thức vào cuộc sống và tạo cho các em kĩ năng sống cần thiết trong thời đại hội nhập. - Qua một năm thực hiện đổi mới phương pháp dạy học môn lịch sử 10 kết quả đạt được như sau: Chất lượng tháng 3-4 học kỳ II TS Giỏi Khá TB Yếu Kém 148 SL TL SL TL SL TL SL TL SL TL 137 92,6% 11 7,4% 00 00 00 0 00 00 3. Phạm vi áp dụng Đề tài có thể ứng dụng hoặc làm tài liệu tham khảo trong việc giảng dạy Lịch Sử ở trường và đã được chia sẻ cho giáo viên Lịch Sử ở các trường THPT trong tỉnh Vĩnh Long. IV. KIẾN NGHỊ VÀ ĐỀ XUẤT Để nâng cao chất lượng và hiệu quả của bộ môn Lịch sử ở các trường THPT, tôi xin mạnh dạn đề xuất một số vấn đề sau: 1. Các giáo viên trực tiếp giảng dạy bộ môn này cần tăng cường đổi mới phương pháp dạy học để đáp ứng mục tiêu giáo dục đề ra. 2. Cần tăng cường đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá đối với bộ môn lịch sử 3. Sở giáo dục và đào tạo nên tổ chức các hoạt động chuyên đề theo định kì để giáo viên trao đổi, học hỏi kinh nghiệm. ---------------***----------------- Vĩnh Long 19 tháng 04 năm 2019 Người viết Phạm Thị Thúy An
File đính kèm:
- bao_cao_bien_phap_phat_huy_tinh_tich_cuc_cua_hoc_sinh_trong.doc