SKKN Vận dụng mô hình dạy học dự án vào dạy học Vật lý THPT nhằm phát huy tính tích cực, tự lực và kỹ năng làm việc theo nhóm của học sinh

Từ đầu thế kỷ XX, các sư phạm Mỹ đã xây dựng cơ sở lý luận cho mô hình dạy học theo dự án (PBL – Project Based Learning) và coi đây là phương pháp dạy học quan trọng để thực hiện dạy học hướng vào người học nhằm khắc phục nhược điểm của dạy học truyền thống. Dạy học theo dự án được hiểu là một phương pháp hay hình thức dạy học, trong đó người học thực hiện một nhiệm vụ phức hợp, có sự kết hợp giữa lý thuyết và thực tiễn, thực hành.

Nhiệm vụ này được người học thực hiện với tính tự lực cao trong quá trình học tập, từ việc xác định mục đích, lập kế hoạch, đến việc thực hiện dự án, kiểm tra, điều chỉnh, đánh giá quá trình và kết quả thực hiện được. Xuất phát từ những lý do nói trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Vận dụng mô hình dạy học dự án vào dạy học Vật lý THPT nhằm phát huy tính tích cực, tự lực và kỹ năng làm việc theo nhóm của học sinh”.

pdf 29 trang Huy Quân 29/03/2025 2260
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Vận dụng mô hình dạy học dự án vào dạy học Vật lý THPT nhằm phát huy tính tích cực, tự lực và kỹ năng làm việc theo nhóm của học sinh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Vận dụng mô hình dạy học dự án vào dạy học Vật lý THPT nhằm phát huy tính tích cực, tự lực và kỹ năng làm việc theo nhóm của học sinh

SKKN Vận dụng mô hình dạy học dự án vào dạy học Vật lý THPT nhằm phát huy tính tích cực, tự lực và kỹ năng làm việc theo nhóm của học sinh
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 
VẬN DỤNG MÔ HÌNH DẠY HỌC DỰ ÁN VÀO DẠY 
HỌC VẬT LÝ THPT NHẰM PHÁT HUY TÍNH TÍCH 
CỰC, TỰ LỰC VÀ KỸ NĂNG LÀM VIỆC THEO 
NHÓM CỦA HỌC SINH 
MỞ ĐẦU 
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 
Quyết định số 16/2006/QĐ – BGDĐT ngày 5/5/2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào 
tạo đã nêu rõ: “Phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp 
với đặc trưng môn học, đặc điểm đối tượng học sinh, điều kiện của từng lớp học; bồi dưỡng 
cho học sinh phương pháp tự học, khả năng hợp tác; rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào 
thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm học tập cho học 
sinh”. 
Như vậy có thể thấy cốt lõi của đổi mới dạy và học là hướng tới hoạt động học tập chủ 
động, học sinh là trung tâm, chống lại thói quen học tập thụ động. 
Từ đầu thế kỷ XX, các sư phạm Mỹ đã xây dựng cơ sở lý luận cho mô hình dạy học theo 
dự án (PBL – Project Based Learning) và coi đây là phương pháp dạy học quan trọng để thực 
hiện dạy học hướng vào người học nhằm khắc phục nhược điểm của dạy học truyền thống. 
Dạy học theo dự án được hiểu là một phương pháp hay hình thức dạy học, trong đó người học 
thực hiện một nhiệm vụ phức hợp, có sự kết hợp giữa lý thuyết và thực tiễn, thực hành. Nhiệm 
vụ này được người học thực hiện với tính tự lực cao trong quá trình học tập, từ việc xác định 
mục đích, lập kế hoạch, đến việc thực hiện dự án, kiểm tra, điều chỉnh, đánh giá quá trình và 
kết quả thực hiện được. 
Xuất phát từ những lý do nói trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Vận dụng mô 
hình dạy học dự án vào dạy học Vật lý THPT nhằm phát huy tính tích cực, tự lực và kỹ năng 
làm việc theo nhóm của học sinh”. 
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU 
Nghiên cứu vận dụng DHDA vào dạy học chương “Các định luật bảo toàn” – Vật lý 10 
THPT nhằm phát huy tính tích cực, tự lực và khả năng làm việc theo nhóm của HS và đề xuất 
một số biện pháp có thể triển khai rộng rãi mô hình này trong DHVL ở trường THPT. 
III. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU 
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của mô hình DHDA trong dạy học ở trường 
THPT nói chung và DHVL nói riêng. 
- Nghiên cứu cấu trúc, nội dung chương “Các định luật bảo toàn” – Vật lý 10 THPT. 
- Vận dụng mô hình DHDA vào thiết kế các tiến trình dạy học cho một số kiến thức 
thuộc chương “Các định luật bảo toàn” – Vật lý 10 THPT. 
IV. CẤU TRÚC CỦA ĐỀ TÀI 
PHẦN MỞ ĐẦU 
PHẦN NỘI DUNG 
Chương 1: Cơ sở lý luận của ứng dụng mô hình DHDA nhằm phát huy tính tích cực, tự 
lực và khả năng làm việc theo nhóm của học sinh. 
Chương 2: Thiết kế tiến trình dạy học một số kiến thức chương “các định luật bảo toàn” 
theo mô hình DHDA. 
Chương 3: Kết quả và bàn luận. 
PHẦN KẾT LUẬN 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
V. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI 
- Góp phần làm sáng tỏ lý luận về ứng dụng phương pháp DHDA trong dạy học vật lý ở 
trường THPT góp phần đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực, tự 
lực và khả năng làm việc theo nhóm của HS. 
- Xây dựng ý tưởng, thiết kế hồ sơ bài dạy và tiến hành tổ chức dạy học 1 dự án: “Tên lửa 
nước – Chinh phục không gian” 
- Đề xuất một số biện pháp nhằm triển khai rộng rãi mô hình DHDA trong dạy học vật lý 
ở trường THPT 
CHƯƠNG I 
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ỨNG DỤNG MÔ HÌNH DHDA NHẰM PHÁT HUY 
TÍNH TÍCH CỰC, TỰ LỰC VÀ KHẢ NĂNG LÀM VIỆC THEO NHÓM 
CỦA HỌC SINH 
1.1. Khái niệm về DHDA 
Đầu thế kỷ XX, các nhà sư phạm Mỹ đã xây dựng cơ sở lý luận cho phương pháp dạy 
học dựa trên dự án và coi đó là PPDH quan trọng để thực hiện quan điểm lấy học sinh là trung 
tâm, khắc phục nhược điểm của PPDH truyền thống lấy giáo viên là trung tâm. Ban đầu, dạy 
học dựa trên dự án được sử dụng trong dạy học thực hành các môn kỹ thuật, chủ yếu ở bậc học 
cao đẳng, đại học, về sau được sử dụng rộng rãi trong hầu hết các môn khoa học khác, kể cả 
các môn khoa học xã hội, ở bậc học cao đẳng, đại học và cả ở bậc học THPT. 
DHDA là một hình thức (mô hình) dạy học, trong đó người học thực hiện một nhiệm vụ 
học tập phức hợp, có sự kết hợp giữa lý thuyết và thực hành, có thể tạo ra các sản phẩm thực 
tế. Nhiệm vụ này được người học thực hiện với tính tự lực cao trong toàn bộ quá trình học tập, 
từ việc xác định mục đích, lập kế hoạch, đến việc thực hiện dự án, kiểm tra, điều chỉnh, đánh 
giá quá trình và kết quả thực hiện. Làm việc nhóm là hình thức cơ bản của DHDA. 
1.2. Đặc điểm và tiến trình DHDA 
 Đặc điểm của DHDA: 
Các nhà giáo dục trên thế giới và cả ở Việt nam đã có nhiều khác biệt trong xem xét và 
kể ra các đặc điểm của DHDA, nhưng nhìn chung lại có thể thấy được các đặc điểm nổi bật 
sau: 
- Tính phức hợp của nhiệm vụ học tập 
- Tính định hướng người học 
- Tính hợp tác trong hoạt động 
- Tính định hướng hoạt động thực tiễn 
- Tính định hướng sản phẩm 
 Tiến trình DHDA 
Có thể phân chia DHDA thành 5 giai đoạn như sau: 
- Chọn đề tài, xác định mục đích của dự án 
- Xây dựng đề cương, kế hoạch thực hiện 
- Thực hiện dự án 
- Thu thập kết quả và công bố sản phẩm 
- Đánh giá dự án 
1.3. Phân loại DHDA 
Có nhiều tiêu chí phân loại dự án học tập, nhưng nếu dựa vào đặc điểm của nhiệm vụ cần 
giải quyết và sản phẩm tạo ra, chúng tôi phân chia các dự án học tập ra làm 4 loại: 
Dự án tìm hiểu (tìm hiểu một kiến thức, một ứng dụng nào đó, sản phẩm tạo ra có thể là 
một bài luận, một bài thuyết trình hay websites giới thiệu). 
Dự án nghiên cứu (nghiên cứu, giải thích một hiện tượng vật lý, sản phẩm tạo ra có thể là 
một bài thuyết trình, một bài luận hay websites) 
Dự án khảo sát (khảo sát có định lượng một quá trình vật lý nào đó, sản phẩm tạo ra là 
một bài luận, một báo cáo về một quy luật mới hay khẳng định một quy luật vật lý đã học). 
Dự án kiến tạo (ứng dụng kiến thức nhằm kiến tạo các sản phẩm mới, sản phẩm mới có 
thể là sản phẩm vật chất như một thiết bị, một mô hình, hay phi vật chất như tổ chức một buổi 
hội thảo, buổi tư vấn, thuyết trình, buổi văn nghệ). 
1.4. Những ưu điểm và giới hạn của DHDA. 
 Ưu điểm điểm của DHDA: 
DHDA mang lại nhiều lợi ích cho cả GV lẫn HS. Ngày càng có nhiều nghiên cứu của 
nhiều nhà sư phạm ủng hộ cho việc vận dụng DHDA vào các hoạt động học tập nhằm khuyến 
khích học sinh học tập, thúc đẩy các kỹ năng hợp tác và nâng cao hiệu quả học tập. 
Đối với học sinh, những ích lợi từ dạy học theo dự án gồm: 
 Tăng tính chuyên cần, nâng cao tính tự lực và thái độ học tập (Thomas, 2000) 
 Kiến thức thu được tương đương hoặc nhiều hơn so với những mô hình dạy học khác do 
khi được tham gia vào dự án học sinh sẽ trách nhiệm hơn trong học tập so với các hoạt 
động truyền thống khác trong lớp học (Boaler, 1997; SRI, 2000) 
 Có cơ hội phát triển những kỹ năng phức hợp, như tư duy bậc cao, giải quyết vấn đề, hợp 
tác và giao tiếp (SRI, 2000) 
 Có được cơ hội rộng mở hơn trong lớp học, tạo ra chiến lược thu hút những học sinh 
thuộc các nền văn hóa khác nhau (Railsback, 2002) 
Đối với giáo viên, những ích lợi mang lại là việc nâng cao tính chuyên nghiệp và sự hợp 
tác với đồng nghiệp, cơ hội xây dựng các mối quan hệ với học sinh (Thomas, 2000). 
 Giới hạn của DHDA: 
DHDA không phù hợp trong việc chiếm lĩnh các kiến thức lý thuyết có tính trừu tượng 
cao. DHDA đòi hỏi nhiều thời gian, khó có thể áp dụng tràn lan vì vậy chỉ có thể là phương 
pháp bổ sung chứ không thể thay thế các phương pháp khác. 
DHDA đòi hỏi sự sẵn sàng của cả người học lẫn người tổ chức thực hiện, trong khi đó, 
một phần lớn giáo viên chưa được đào tạo để sẵn sàng với hình thức dạy học mới, dẫn đến 
nhiều khó khăn trong ứng dụng DHDA. 
1.5. Hồ sơ bài dạy trong DHDA 
1.5.1. Bộ câu hỏi định hướng 
 Cấu trúc bộ câu hỏi định hướng bao gồm: câu hỏi nội dung, câu hỏi bài học, câu hỏi 
khái quát. 
 Câu hỏi khái quát 
Câu hỏi khái quát giới thiệu khái quát, đầy đủ những ý tưởng xuyên suốt môn học. Câu 
hỏi khái quát cung cấp cầu nối giữa các bài, phạm vi môn học, thậm chí cả khóa học trong một 
năm. Câu hỏi khái quát là một câu hỏi mở có nhiều câu trả lời và thường không thể có câu trả 
lời sẵn mà muốn trả lời được HS phải phân tích, tư duy, sử dụng các kiến thức và kinh nghiệm 
sẵn có đồng thời tìm hiểu các kiến thức mới. 
 Câu hỏi bài học 
Câu hỏi bài học cũng là câu hỏi mở nhưng bó hẹp trong một chủ đề hoặc một bài học cụ 
thể, có đáp án mở, lôi cuốn HS vào việc khám phá những ý tưởng cụ thể đối với từng chủ đề, 
bài học, môn học. Câu hỏi bài học hỗ trợ và phát triển câu hỏi khái quát, định hình các suy 
nghĩ của HS, hướng đến sự hình thành dự án cụ thể. 
 Câu hỏi nội dung 
Câu hỏi nội dung là những câu hỏi đóng, có câu trả lời rõ ràng, hướng đến những mục 
tiêu dạy học cụ thể, hỗ trợ cho câu hỏi khái quát và câu hỏi bài học. Câu hỏi nội dung bám sát 
các mục tiêu dạy học cụ thể, đòi hỏi học sinh phải trả lời hoàn chỉnh sau khi thực hiện dự án. 
1.5.2. Kế hoạch thực hiện 
Kế hoạch thực hiện cần có đầy đủ các yếu tố như các mục tiêu cần đạt được, bộ câu hỏi 
định hướng, ý tưởng và kịch bản thực hiện dự án, dự kiến chia nhóm, tiến trình thời gian thực 
hiện, dự trù kinh phí, kế hoạch kiểm tra, đánh giá dự án, các nguồn tài nguyên hỗ trợ việc thực 
hiện dự án Như vậy, kế hoạch thực hiện là văn bản chi tiết của hồ sơ bài dạy, được GV lập 
ra trước như một hoạch định, đảm bảo dự án diễn ra thành công. 
1.5.3. Tình huống xuất hiện dự án – các ý tưởng dự án 
Ý tưởng dự án có thể do GV đề xuất nhưng đôi khi cũng xuất phát từ sự sáng tạo của HS. 
Nhưng dù thế nào, đi kèm với tình huống thảo luận, GV cũng phải chuẩn bị sẵn một số ý 
tưởng, kịch bản để HS thảo luận và lựa chọn. Nguyên tắc ở đây là, GV chỉ đóng vai trò định 
hướng và giúp HS lựa chọn được dự án phù hợp với khả năng nhận thức, kỹ năng và điều kiện 
thực tế của HS. 
Để lựa chọn được một tình huống thảo luận có chất lượng, thu hút được sự quan tâm của 
đa số HS, người GV phải xuất phát từ chính những nội dung cần học, phải tìm được các khía 
cạnh thời sự của kiến thức, phù hợp với lứa tuổi và khả năng của các em. Việc diễn đạt tình 
huống lúc đầu không cần quan trọng, nhưng 

File đính kèm:

  • pdfskkn_van_dung_mo_hinh_day_hoc_du_an_vao_day_hoc_vat_ly_thpt.pdf