SKKN Vấn đề về phương pháp giảng dạy tích hợp đối với bộ môn Ngữ Văn 9
Năm học 2011-2012 là năm thứ năm thực hiện chương trình thay sách giáo khoa và được triển khai đại trà trên toàn quốc. Trong bối cảnh ngành Giáo dục và Đào tạo đang nỗ lực đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh. Phương pháp dạy học được coi là cách thức hoạt động của giáo viên khi tổ chức các hoạt động học tập, nhằm giúp học sinh đạt được các mục tiêu dạy học. để thực hiện công cuộc đổi mới giáo dục đòi hỏi phải có sự đầu tư quan tâm thích đáng từ nhiều mặt. Chương trình ngữ văn 9 của THCS được xây dựng theo nguyên tắc tích hợp.
Theo chương trình này, ba phân môn: Văn - Tiếng Việt và Tập làm văn được thống nhất lại thành một môn học, gọi là môn Ngữ văn. Coi trọng tính thực hành, sách giáo khoa Ngữ Văn 9 đã tập trung theo hướng phát huy tính chủ động sáng tạo của học sinh trong học tập, trong đó phần Tiếng Việt và lí thuyết Tập làm văn đã được coi trọng. Qua thực tế giảng dạy, tôi đã nhận thức rõ: Tiếng Việt là phân môn nền tảng, là công cụ giao tiếp quan trọng trong đời sống và là cơ sở cho các môn học trong hệ thống trường phổ thông. Từ sự vận dụng Tiếng Việt trong việc lý giải vẻ đẹp và hiệu quả của nghệ thuật ngôn từ trong tác phẩm văn học, trong Tập Làm Văn và giao tiếp hằng ngày. Học sinh sẽ tự nâng cao các tri thức Tiếng Việt và Văn học để tạo lập các kiểu văn bản nói và văn bản viết. Như vậy sản phẩm của Tập Làm Văn là căn cứ cơ bản để đánh giá kết quả việc học Tiếng Việt và Văn học của học sinh để hướng tới kỹ năng cơ bản: đọc, nói, viết mà chương trình đã đặt ra. Chính từ việc nhận thức được tầm quan trọng như trên, tôi xin một vài ý kiến về việc giảng dạy tích hợp đối với môn Ngữ văn lớp 9.
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Vấn đề về phương pháp giảng dạy tích hợp đối với bộ môn Ngữ Văn 9

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM VẤN ĐỀ VỀ PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY TÍCH HỢP ĐỐI VỚI BỘ MÔN NGỮ VĂN 9 PHẦN THỨ NHẤT I .Lý do chọn đề tài Năm học 2011-2012 là năm thứ năm thực hiện chương trình thay sách giáo khoa và được triển khai đại trà trên toàn quốc. Trong bối cảnh ngành Giáo dục và Đào tạo đang nỗ lực đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh. Phương pháp dạy học được coi là cách thức hoạt động của giáo viên khi tổ chức các hoạt động học tập, nhằm giúp học sinh đạt được các mục tiêu dạy học. để thực hiện công cuộc đổi mới giáo dục đòi hỏi phải có sự đầu tư quan tâm thích đáng từ nhiều mặt. Chương trình ngữ văn 9 của THCS được xây dựng theo nguyên tắc tích hợp. Theo chương trình này, ba phân môn: Văn - Tiếng Việt và Tập làm văn được thống nhất lại thành một môn học, gọi là môn Ngữ văn. Coi trọng tính thực hành, sách giáo khoa Ngữ Văn 9 đã tập trung theo hướng phát huy tính chủ động sáng tạo của học sinh trong học tập, trong đó phần Tiếng Việt và lí thuyết Tập làm văn đã được coi trọng. Qua thực tế giảng dạy, tôi đã nhận thức rõ: Tiếng Việt là phân môn nền tảng, là công cụ giao tiếp quan trọng trong đời sống và là cơ sở cho các môn học trong hệ thống trường phổ thông. Từ sự vận dụng Tiếng Việt trong việc lý giải vẻ đẹp và hiệu quả của nghệ thuật ngôn từ trong tác phẩm văn học, trong Tập Làm Văn và giao tiếp hằng ngày. Học sinh sẽ tự nâng cao các tri thức Tiếng Việt và Văn học để tạo lập các kiểu văn bản nói và văn bản viết. Như vậy sản phẩm của Tập Làm Văn là căn cứ cơ bản để đánh giá kết quả việc học Tiếng Việt và Văn học của học sinh để hướng tới kỹ năng cơ bản: đọc, nói, viết mà chương trình đã đặt ra. Chính từ việc nhận thức được tầm quan trọng như trên, tôi xin một vài ý kiến về việc giảng dạy tích hợp đối với môn Ngữ văn lớp 9. Dạy học theo nguyên tắc tích hợp ở Ngữ văn 9 có một sự liên hệ chặt chẽ với những kiến thức đã học ở bậc Tiểu học: từ thực tiễn giảng dạy, tôi nhận thấy sự tiếp thu kiến thức và khả năng thực hành cảu học sinh khi học ở THCS còn nhiều hạn chế. Do vậy khi đưa những câu hỏi tích hợp từ kiến thức ở Tiểu học để hình thành, củng cố, khắc sâu kiến thức cho học sinh. Tích hợp là một vấn đề rất lớn không riêng gì đối với môn Ngữ văn. Tuy nhiên, môn Ngữ văn có nhiều điều kiện thuận lợi để thực hiện trước một bước. Văn học – Tiếng Việt và Tập làm văn đều có một yếu tố chung là Tiếng Việt, dù dạy văn học, Tiếng Việt hay Tập làm văn thì tất cả đều do một giáo viên đảm nhiệm và người giáo viên đó do một khoa đào tạo. Dĩ nhiên, việc cải tiến chương trình Ngữ Văn theo hướng tích hợp có vận dụng kinh nghiệm của nhiều nước, song trước hết là xuất phát từ thực tiễn giáo dục của Việt Nam. Việc tách môn văn thành 3 phân môn trên 20 năm qua tuy đưa lại một số kinh nghiệm nhất định song đã ngày càng bộc lộ nhiều nhược điểm, đặc biệt ở bậc THCS. Hướng phấn đấu bao quát cua việc thực hiện chương trình môn Ngữ văn theo tinh thần tích hợp là làm sao kết hợp được thật tốt việc hình thành 4 kĩ năng: Nghe, nói, viết. Chương trình viết không nhằm mục đích riêng cho từng phân môn mà chỉ viết mục tiêu chung cho môn Ngữ văn chính là vì thế. Để giải quyết một điểm nào đó trong yêu cầu của chương trình đều phải có sự đóng góp hợp lực của cả 3 phân môn. không nên quan diểm “Tích hợp là phương pháp dùng để rút bớt môn học hoặc biện pháp nhằm giảm tải” dẫu rằng đó là những hệ quả có thể xảy ra do việc thực hiện phương hướng “Tích hợp”. Trên nền giáo dục hiện đại, tích hợp là phương pháp nhằm phối hợp một cách tối ưu các quá trình học tập riêng rẽ các môn học. Phân môn khác nhau nhằm đáp ứng những mục tiêu, mục đích và yêu cầu cụ thể khác nhau. Tích hợp được xem là nguyên tắc tổng hợp của việc xây dựng cả hệ thống chương trình. Dạy tích hợp, người đứng lớp phải biết thực hiện mọi yêu cầu một cách linh hoạt, sáng tạo mà mấu chốt của sự sáng tạo là luôn suy nghĩ và mục tiêu của bộ môn Ngữ văn nói chung để tìm ra những yếu tố đồng quy giữa 3 phần phân môn, tích hợp trong từng thời điểm theo từng vấn đề. Quan điểm tích hợp phải quán triệt trong mọi khâu kể cả khâu đánh giá. Có thể có những bài tập riêng cho từng phân môn, song chúng ta cần đánh giá cao những học sinh biết sử dụng những kiến thức của phân môn khác. Đó chính là những thói quen, cơ sở ban đầu để sau này học lên, các em sẽ có điều kiện tiếp thu và vân dụng dễ dàng hơn phương pháp nghiên cứu nghiên ngành, cũng như khi vào đời, các em có khả năng giải quyết dễ dàng hơn các vấn đề thực tiễn vì mọi tình huống xảy ra trong cuộc sống bao giờ cũng là tình huống tích hợp. Tích hợp phải phát huy tối đa tính tích cực, tính sáng tạo của học sinh, chủ thể học tập ở tất cả mọi khâu: từ việc chuẩn bị bài, sưu tập tư liệu trong tổ, nhóm, tự đáng giá và đánh giá bạn, tham gia, hoạt động thực tiễn theo quan điểm đặc trưng bộ môn. Xuất phát từ việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh nên tôi đã chọn nghiên cứu đề tài “ Một số vấn đề về phương pháp giảng dạy tích hợp đối với Ngữ văn 9”. II. Mục đích nghiên cứu: Để nâng cao chất lượng giảng dạy môn Ngữ văn 9 nhằm phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo cho học sinh. III. Nhiệm vụ của đề tài: Giảng dạy tích hợp đối với Ngữ văn 9 là một trong những nhiệm vụ trọng tâm đối với chương trình và sách giáo khoa lần này là: Đổi mới phương pháp dạy và học. Trong chương trình Ngữ văn THCS tích hợp 3 phân môn: Văn - Tiếng Việt - Tập làm văn lần này có tác dụng tạo mối liên kết khăng khít với nhau. Vì vậy việc giảng dạy theo hướng tích hợp có tác dụng lớn đối với học sinh trong việc hấp thụ kiến thức cấu trúc sách giáo khoa Ngữ văn THCS cho thấy sự nhấn mạnh những điểm đồng quy về kiến thức, kĩ năng giữa 3 phân môn để thực hiện quan điểm tích hợp. Yếu tố đồng quy này chính là ngôn ngữ trong văn bản của mỗi bài. Ngôn ngữ cần được hiểu theo nghĩa rộng không chỉ bao gồm ngữ âm, từ vựng, cú pháp mà còn là kiểu văn bản, các quy tắc ngôn ngữ, các quy tắc tổ chức không gian, thời gian của văn bản. Như vậy đối với chương trình sách giáo khoa mới phải tận dụng những kiến thức, kĩ năng giải mã và sản sinh văn bản và ngược lại vận dụng những kiến thức kĩ năng giải mã để củng cố và phát triển những kiến thức, kĩ năng Tiếng Việt. Cấu trúc này cho thấy sự quan tâm phát huy năng lực tích cực, chủ động, và sáng tạo của học sinh trong học tập Ngữ văn. Thông qua việc cung cấp kiến thức Văn – Tiếng Việt - Tập làm văn hình thành và phát triển cho học sinh cách tiếp nhận, cách tạo lập các loại hình văn bản, cách giải quyết và vận dụng những kiến thức và kĩ năng Văn - Tiếng Việt vào thực tiễn cuộc sống một cách năng động và sáng tạo. IV. Đối tượng nghiên cứu: Đề tài: “Một số vấn về phương pháp giảng dạy tích hợp đối với Ngữ văn 9” Đối tượng nghiên cứu: Là học sinh lớp 9. V. Phương pháp nghiên cứu: Thông qua từng cụm bài giáo viên xây dựng hệ thống câu hỏi để lồng ghép những kiến thức tích hợp từng phân môn vào cụm bài chung. CÓ ĐẦY ĐỦ CHI TIẾT SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM NGỮ VĂN THCS THEO CHUẨN KIẾN THỨC NĂM 2011-2012 CÒN NỮA....... PHẦN THỨ HAI Nội dung và kết quả nghiên cứu Chương I: Cơ sở lý luận và Pháp lý của việc chỉ đạo. 1. Cơ sở lý luận: Đổi mớiphương pháp dạy học là phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh. Đổi mới phương pháp tích hợp: giáo viên đứng lớp cần phải biết thực hiện yêu cầu tích hợp, linh hoạt sáng tạo, suy ngẫm về mục tiêu của bộ môn Ngữ văn, tìm ra yếu tố đồng quy giữa 3 phân môn tích hợp trong từng thời điểm, từng vấn đề. Quan điểm tích hợp phải quán triệt trong mọi khâu để đánh giá. Phải phát huy tối đa tính tích hợp chủ động sáng tạo của học sinh. Vì học sinh là chủ thể học tập trong mọi khâu: Từ việc chuẩn bị bài, sưu tập tài liệu, phát biêu trong tổ, nhóm, đánh giá mình, đánh giá bạn Đổi mới việc giảng dạy tích hợp Ngữ văn 9: Tích hợp theo chiều dọc là tích hợp ở một đơn vị kiến thức và kĩ năng mới, những kiến thức và kĩ năng đã học trước đó theo nguyên tắc đồng trục ( còn gọi là vòng tròn đồng tâm) hay vòng tròn xoáy trôn ốc. Cụ thể là kiến thức và kĩ năng hình thành ở bài học, lớp học bâvj học sau bao hàm kiến thức, kĩ năng, bậc học trước nhưng cao hơn, sâu hơn trước. Tích hợp theo chiều dọc là dựa trên nguyên tắc đồng trục càng nên cao thì yêu cầu nội dung càng cao, kiến thức lớp trên, bậc trên cao hơn kiến thức bậc dưới, lớp dưới. Tích hợp theo chiều ngang: Tích hợp kiến thức Tiếng Việt với các mảng kiến thức về Văn học và Tập làm văn. Việc lựa chọn nội dung: Ngữ văn 9 chọn các kiểu thành phần câu như: Thành phần biệt lập, khối ngữ nghĩa tường minh, hàm ý phục vụ cho việc tạo lập các văn bản nghị luận. Việc sắp xếp nội dung: Bộ sách giáo khoa Ngữ văn THCS chú ý sắp xếp nội dung theo kiểu xen kẽ các vấn đề về từ, về câu và tạo lập văn bản. Sự liên kết theo chiều ngang với Văn học và Tập làm văn hơn là hệ thống kiến thức “Hàn lâm” ngôn ngữ học. Việc khai thác nội dung: Phần Tiếng Việt trong SGK Ngữ văn tận dụng mọi cơ hội có thể có để phục vụ việc học Văn bản và Tập làm văn. 2. Cơ sở pháp lí: Ngày 9/12/2000 quốc hội đã có nghị quyết số 40/2000 QH 10 về đổi mới chương trình về giáo dục phổ thông. Báo cáo BCH TW Đảng khoá VIII tại đại hội đại biểu toàn quốc lần IX của Đảng về phát triển kinh tế - hội năm 2001 - 2010 đã nêu rõ việc “Khẩn trương biên soạn và đưa vào sử dụng ổn định trong cả nước bộ chương trình sách giáo khoa phổ thông phù hợp với yêu cầu phát triển mới”. Mục tiêu của việc đổi mới chương trình và sách giáo khoa là: Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện tăng cường bồi dưỡng cho thế hệ trẻ lòng yêu nước, yêu quê hương và gia đình, tinh thần tự tôn dân tộc, lý tưởng XHCN, tinh thần hiếu học, chí tiến thủ, lập thân lập nghiệp, lòng nhân ái, ý thức kỉ luật, tôn trọng pháp luật. Đổi mơidss phương pháp dạy học là
File đính kèm:
skkn_van_de_ve_phuong_phap_giang_day_tich_hop_doi_voi_bo_mon.pdf